1 |
Flooding Analysis And Slope Stability Assessment Due To A Confined Aquifer In The Elbistan-collolar Open Cast MineYoncaci, Selin 01 December 2009 (has links) (PDF)
Groundwater can be a critical issue to be considered in civil engineering, mining engineering and interdisciplinary fields. Karstic structures and aquifers enclosing groundwater are potential risks in case they are not studied in detail. Enclosed groundwater can result in floods at pit bottom or can cause instabilities of permanent pit slopes.
This study is about analyses of flooding possibility at the pit bottom and possible instabilities of pit slopes in the Elbistan-Ç / ö / llolar open cast coal mine due to the presence of a karstic aquifer under the lignite formation.
Thickness and permeability of the bottom clay formation under the lignite bed are necessary critical parameters for investigating a possible water rush from a confined aquifer in limestone formation underneath the bottom clay. These parameters were changed, and water flow quantities towards the pit bottom were determined by finite element models. Critical values of these parameters were investigated considering the lack of accurate site investigation information regarding the thickness and permeability of bottom clay. Possible strength loss, fracturing, and thus permeability increase in bottom clay due to a confined aquifer were studied. In flooding and slope stability analyses Phase2 software based on finite element method is used.
Results of analyses showed that as reported thickness of bottom clay is around 120 m at the pit bottom and permeability values are in orders of magnitudes of 10-8 m/s, no serious flooding problems are expected to occur unless the thickness of bottom clay layer drops down to around 20 m, and the permeability of this layer reaches an order of magnitude of 10-5 m/s.
Mechanical effects of confined aquifer on slopes and bottom clay displacements were investigated, and thus fracturing and failure possibilities of bottom clay and permanent slope were assessed. Slope and pit bottom displacements increased to meter levels for less than 60 m bottom clay thicknesses. Whereas 50-60 m bottom clay thickness can be critical for cracking, 20 m bottom clay thickness was found to be critical for water rush to the pit bottom.
With reported bottom clay thickness of 120 m and with 25o slope angle permanent slope factor of safety was found to be 1.2, and this value was not effected unless clay layer thickness drops below 70 m levels. Higher than 32o overall slope angle there will be a risk of slope failure for permanent and production slopes, reflected by safety factors less than one, in the stability analyses.
|
2 |
Distribution of saline and freshwater in groundwater in Thai Binh province and solution for reasonable exploitation: Research articleTran, Thi Than Thuy, Nguyen, Van Lam, Dang, Huu On 09 December 2015 (has links)
Thai Binh is a coastal province of Red River Delta in Vietnam, having administrative boundaries at the river systems and coastlines that cause groundwater quality varies complicatedly. Today in Thai Binh province, the groundwater in Holocene and Pleistocene aquifers is exploited for domestic use. But, beside the quality of groundwater in this region is not uniform, it is interspersed between salt water and fresh water zones in Holocene and Pleistocene aquifers. Nowaday, under the force of groundwater exploitation activity for domestic purposes, agricultural activities, the impact of climate change and sea level rise issues, the quality of distribution of groundwater here change. According to the recent research results, groundwater quality and distribution of salt water - fresh water there have many changes compared with the research results of the Northern Division for Water resources Planning and Investigation in the year 1996. For the the Holocene aquifer (qh), distribution area of salt water zone has been narrowed. Besides, saline cleaning process occurred in some coastal areas in Tien Hai, Thai Thuy and a part of Quynh Phu district. For the Pleistocene aquifer (qp), compared with research result in 1996, the boundaries between saline and fresh water at the present time is not change so much. By assessing the status of the distribution of saline and fresh water zones in groundwater in Thai Binh and the movement of this boundary, author’s research results will be the basis that helps the managers give out reasonable exploiting and sustainable using methods for these natural resources. / Thái Bình là một tỉnh ven biển thuộc vùng châu thổ sông Hồng của Việt Nam, được bao bọc bởi hệ thống sông biển khép kín làm cho chất lượng nước ngầm biến đổi rất phức tạp. Hiện nay, tại Thái Bình có 2 tầng chứa nước chính phục vụ ăn uống sinh hoạt là tầng chứa nước Holocen và tầng chứa nước Pleistocen. Tuy nhiên, chất lượng nước ngầm ở các tầng chứa nước này không đồng đều, có sự phân bố xen kẽ giữa các khoảnh nước mặn và nước nhạt. Hiện nay, dưới tác động của hoạt động dân sinh, sản xuất nông nghiệp, khai thác nước phục vụ sinh hoạt cùng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và sự dâng cao của mực nước biển đã làm thay đổi chất lượng và quy mô phân bố nước ngầm khu vực. Theo những kết quả nghiên cứu mới nhất của tác giả cho thấy diện tích phân bố của các vùng nước mặn - nước nhạt của các tầng chứa nước trên địa bàn tỉnh đã có nhiều thay đổi so với kết quả nghiên cứu trước đây của Liên đoàn Địa chất thủy văn – Địa chất công trình miền Bắc năm 1996. Với tầng chứa nước Holocen, diện tích phân bố các khoảnh nước mặn bị co hẹp và đang có sự nhạt hóa tại một số khu vực ven biển thuộc Huyện Tiền Hải, Thái Thụy và một phần thuộc huyện Quỳnh Phụ. Trong tầng chứa nước Pleistocen (qp), so với kết quả nghiên cứu năm 1996, ranh giới mặn – nhạt tại thời điểm hiện tại đã có sự thay đổi nhưng không lớn. Kết quả nghiên cứu này là cơ sở giúp các nhà quản lý đề xuất giải pháp, phân vùng khai thác và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên này đặc biệt trước tình trạng khan hiếm nước như hiện nay trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
|
Page generated in 0.0729 seconds