• Refine Query
  • Source
  • Publication year
  • to
  • Language
  • 3
  • Tagged with
  • 3
  • 2
  • 2
  • 2
  • 1
  • 1
  • 1
  • 1
  • 1
  • 1
  • 1
  • 1
  • 1
  • 1
  • 1
  • About
  • The Global ETD Search service is a free service for researchers to find electronic theses and dissertations. This service is provided by the Networked Digital Library of Theses and Dissertations.
    Our metadata is collected from universities around the world. If you manage a university/consortium/country archive and want to be added, details can be found on the NDLTD website.
1

Les facteurs explicatifs de l'adoption et de l'utilisation de la carte bancaire au Vietnam / Explicative factors influencing the use of the bank card in Vietnam

Dang, Thi Thu 20 September 2013 (has links)
Au Vietnam, le nombre des cartes bancaires émises qui évolue d'une façon spectaculaire, offre beaucoup d'opportunités commerciales aux banques. Cependant, la plus grande difficulté, à laquelle doit faire face le système bancaire du Vietnam, est l'utilisation traditionnelle de l'argent liquide par les habitants, Cette habitude s'avère difficile à modifier. En effet, malgré la carte et ses nombreux services comme le virement, le règlement des achats ... beaucoup de possesseurs de carte utilisent encore essentiellement du liquide. Dans l'espoir d'obtenir une meilleure compréhension des facteurs internes et externes aux consommateurs qui influencent l'utilisation de la carte bancaire, mon sujet a visé à identifier les facteurs explicatifs de l'utilisation de la carte bancaire par les consommateurs vietnamiens. Plusieurs études ont déjà été menées dans le domaine des cartes bancaires, en particulier concernant les facteurs qui influencent l'utilisation de la banque électronique chez les consommateurs. Dans le contexte des pays de l'Asie du Sud-Est, il y a néanmoins peu d'auteurs qui ont étudié ce sujet. Au Vietnam, aucune étude n'a tenté d'élaborer un modèle des facteurs explicatifs d l'utilisation de la carte bancaire. Par conséquent, il est nécessaire d'identifier les facteurs explicatifs de l'utilisation de la carte bancaire chez les Vietnamiens. Notre recherche s'appuie sur les différentes théories et modèles de comportement (Théorie de l'action raisonnée, théorie du comportement planifié, ... ), et les différents modèles d'utilisation des cartes bancaires réalisés dans quelques pays dans le monde. Associé à une étude qualitative auprès de 20 possesseurs de la carte réalisée au Vietnam, nous avons ensuite élaboré un modèle de recherche qui permet de vérifier la relation entre des facteurs internes, externes et l'attitude, et l'utilisation de la carte bancaire chez les consommateurs. Pour vérifier nos hypothèses de recherche, une lourde enquête quantitative sur 1350 consommateurs vietnamiens (possesseurs et non possesseurs) a été réalisée grâce au questionnaire administré en face à face. Les résultats de cette recherche ont montré que la perception de l'infrastructure nationale, le comportement des magasins qui acceptent la carte, la politique Marketing des banques émettrices, le leadership d'opinion, le sexe et l'âge influencent positivement l'attitude; alors que l'infrastructure nationale, le comportement des magasins qui acceptent la carte, la politique Marketing des banques émettrices, la compatibilité perçue, la possibilité d'observabilité, la possibilité d'essai, le leadership d'opinion, le sexe l'attitude influent positivement l'utilisation de la carte bancaire. L'analyse de l'influence de ces facteurs permet au gouvernement vietnamien ainsi qu'aux responsables des banques vietnamiennes d'identifier les stratégies à mettre en oeuvre pour stimuler l'utilisation des cartes. Par conséquent, ce sujet offre des perspectives intéressantes pour les acteurs économiques, ... en termes de stratégies de développement de l'utilisation de carte bancaire. / In Vietnam, the number of issued bank cards is in a changing dramatically, offering many business opportunities fi banks. However, the greatest challenge that faces the banking system of Vietnam is the usual or traditional use of cash' the inhabitants. This habit is difficult to change. Indeed, despite the card and its many services such as transfer, payment for goods ... many cardholders are still using essentially the cash. In the hope of obtaining a better understanding internal and external factors that influence the use of bank card among consumers, my subject is to identify factors the explain the use of the bank card by Vietnamese consumers. Factors influencing the use of electronic banking in general and especially the bank card among consumers are the focus of numerous studies. In the context of the countries Southeast Asia, there are nevertheless some authors who have studied this subject. Especially in Vietnam, no study h attempted to develop a model of factors explaining the use of the bank cards. Therefore, it is necessary to identify the factors explaining the use of bank cards among Vietnamese consumers. Moreover, our research is based on different theories and models involved (Theory of reasoned action, theory of planned behavior ... ), and different patterns of use bank cards performed in some countries in the world. Associated with a qualitative study of 20 cardholders achieved i Vietnam, we then developed a research model based on assumptions about the relationship between internal factor external factors and the attitude towards use, and the use of bank card among consumers. To test hypotheses of the research, a quantitative study of 1350 Vietnamese consumers (owners and non-owners) through the questionnaire administered face to face was performed. The results of this research showed that the perception of the nation infrastructure, the behavior of stores that accept the bank card, Marketing policy of issuing banks, leadership. / Ở Việt Nam, số lượng thẻ ngân hàng phát hành hiện nay tăng rất nhanh, đã mở ra nhiều cơ hộikinh doanh cho các ngân hàng. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất mà hệ thống ngân hàng ViệtNam gặp phải là thói quen sử dụng tiền mặt từ lâu đời trong dân cư. Thói quen này thật khóthay đổi. Thực tế, mặc dù đã có thẻ ngân hàng cũng như nhiều chức năng khác nhau gắn vớithẻ, nhiều chủ sở hữu thẻ vẫn chủ yếu thanh toán bằng tiền mặt. Với mong muốn hiểu đượcnhững nhân tố bên trong và bên ngoài ảnh hưởng đến việc sử dụng thẻ ngân hàng của ngườitiêu dùng, luận án này sẽ xác định những nhân tố giải thích cho việc sử dụng thẻ ngân hàng ởngười tiêu dùng Việt Nam.Nhiều nghiên cứu khác nhau đã đề cập đến thẻ ngân hàng, đặc biệt là những nhân tố ảnhhưởng đến việc dùng ngân hàng điện tử ở người tiêu dùng. Tuy nhiên, trong bối cảnh nhữngquốc gia Đông Nam Á, chỉ có số ít tác giả nghiên cứu vấn đề này. Nhất là tại Việt Nam, chưacó nghiên cứu nào thử phát họa mô hình những nhân tố giải thích cho việc sử dụng thẻ ngânhàng của người tiêu dùng Việt Nam.Mặc khác, nghiên cứu này dựa trên các lý thuyết và mô hình hành vi khác nhau, cũng như dựatrên các mô hình sử dụng thẻ ngân hàng ở một số quốc gia trên thế giới. Kết hợp với cuộcnghiên cứu định tính đối với 20 chủ thẻ ngân hàng, luận án này phát họa mô hình nghiên cứudựa trên các lý thuyết liên quan đến quan hệ giữa những nhân tố bên trong, bên ngoài và tháiđộ đối với việc sử dụng thẻ cũng như việc sử dụng thẻ ở người tiêu dùng.Để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu, cuộc nghiên cứu định lượng được thực hiện đối với1350 người tiêu dùng Việt Nam (người sở hữu và không sở hữu thẻ) nhờ vào bản câu hỏiđược phát trực tiếp.Kết quả cuộc nghiên cứu đã thể hiện rằng cảm nhận về hạ tầng quốc gia, về hành vi của cácđơn vị chấp nhận thẻ, về chính sách Marketing của các ngân hàng phát hành, khả năng dẫnđạo ý kiến, giới tính của người tiêu dùng có quan hệ đồng biến với thái độ đối với việc sửdụng thẻ cũng như việc sử dụng thẻ ngân hàng.Việc phân tích những nhân tố ảnh hưởng này cho phép chính phủ Việt Nam, cũng như cácnhà quản lý ngân hàng xác định các chiến lược nhằm kích thích việc sử dụng thẻ ngân hàng.Do đó, đề tài này mở ra viễn cảnh thú vị về mặt chiến lược phát triển sử dụng thẻ ngân hàng ởViệt Nam.
2

La protection des marques : étude de droit comparé Europe et Vietnam / Trademark protection : study of Europe and Vietnam comparative law

Tran Le, Dang Phuong 18 February 2015 (has links)
Dans le cadre des activités commerciales en cours, pour rivaliser avec succès au marché du Vietnam en particulier et au marché mondial en général, les entreprises ont besoin d'avoir des produits uniques, variés de styles, de couleurs, et de caractéristiques remarquables. Pour le faire, en réalité, beaucoup d'entreprises ont davantage investi dans la recherche, création et le développement des marques de marchandise. Toutefois, dans les activités commerciales, une situation réelle se passe où les entreprises mènent des activités légitimes sont souvent violés concernant les droits de propriété des marques sous les formes diverses et complexes. La plupart de la violation de marques de commerce se fait à l'erreur délibéré, c'est à dire le sujet réalise l'acte de violation sait bien que sa marque lancée au marché est similaire ou cause la confusion aux consommateurs, afin d'obtenir du profit de la vente de biens ou de services. La cause de la situation ci-dessus peut être dérivée de la construction et gestion de la marque au Vietnam est un domaine relativement nouveau pour de nombreuses entreprises. Ce n'est pas tout propriétaire de l'entreprise considère sa marque comme du bien intangible, donc il n'a pas préparé des conditions juridiquement nécessaires pour consolider et développer la marque. En terme d'objectivité, le système juridique spécialisée du Vietnam n'est pas conforme dans les règlements d'établir le droit de propriété et dans les règlements d'identifier l'acte de violation. Les procédures d'enregistrement des droits de propriété industrielle sont surchargées et complexes; le temps d'attente pour la délivrance du certificat de protection de la propriété des marques est très long et traverse plusieurs étapes d'examen. D'autre part, la sanction pour assurer l'appropriation industrielle au Vietnam n'est pas complète et détaillée, le mécanisme de mise en œuvre des sanctions n'est pas clair, et les bases de règlement ne sont pas satisfaisantes. / As part of ongoing business activities, to successfully compete in the Vietnam market in particular and the global market in general, companies need to obtain unique products, styles and remarkable features to stand out. In order to do this, in reality, many companies have invested more in research, the creation and development of merchandise trademarks. However, in conducting commercial activities, companies who are conducting legitimate activities often find their property rights violated by various trade marks in many complex shapes. Most of the trademark violations is deliberate, which, in another words, the subject knowingly performs the act of infringement with the knowledge that its trademark is similar or confusing for consumers in order to profit from the sale of goods or services. The causes of the above situation that can be derived from the building and manging trademark in Vietnam is a relatively new area for many companies. Not all owners considers their trademarks as intangible goods and, therefore, has not prepared the necessary conditions legally to consolidate and develop their trademarks. In terms of objectivity, Vietnam's specialized legal system does not conform to the regulations that establish the right of ownership and the regulations that identify acts of violation. Registration procedures of industrial property rights are overloaded and complex; the waiting time for the delivery of trademark ownership protection certificate is very long and passes through several stages of review. On the other hand, the penalty for industrial ownership in Vietnam is not complete and detailed of the implementation of penalty is not clear, and the foundation of the laws are not satisfactory. / Trong khuôn khổ hoạt động thương mại đang phát triển tại Việt Nam, quốc gia được tác giả lựachọn nghiên cứu so sánh những quy định pháp luật với Châu Âu, các doanh nghiệp rất cần đưacác sản phẩm, dịch vụ mới, như các sản phẩm thể hiện tính sáng tạo vào giao lưu thương mại dướinhãn hiệu có thể thu hút khách hàng và tạo sự trung thành trước tiên là khách hàng trong nước,sau đó định hướng thu hút khách hàng nước ngoài. Nhãn hiệu là dấu hiệu thu hút khách hàng (vídụ như nhãn hiệu Coca-Cola, được biết đến rộng rãi trên thế giới với những sản phẩm nước uốngkhông có cồn ; hay như nhãn hiệu nổi tiếng Apple, dành chỉ những sản phẩm như máy vi tính,điện thoại và các ứng dụng cho các thiết bị trên). Nhãn hiệu, đóng vai trò quan trọng trong việc raquyết định mua hàng của người tiêu dùng nhất là đối với những sản phẩm mới, có giá trị rất caonên doanh nghiệp phải đầu tư xây dựng, phát triển để có thể thu hút được sự quan tâm của kháchhàng, nhất là việc làm cho khách hàng liên tưởng đến sản phẩm hoặc dịch vụ của họ. Do nhãnhiệu tạo sự trung thành từ khách hàng và có giá trị tài sản cao nên là mục tiêu để bên thứ ba mongmuốn chiếm đoạt, bằng việc nhái nhãn hiệu, làm giả nhãn hiệu nhằm gây nhầm lẫn cho kháchhàng, thu lợi bất chính. Chính vì thế, trong hoạt động kinh doanh cần có những quy định pháp luậtđủ mạnh để ngăn chặn tình trạng vi phạm quyền sở hữu nhãn hiệu, có như thế chủ sở hữu mới cóthể an tâm đầu đầu tư phát triển nhãn hiệu, đồng thời có thể thu hút được những nhà đầu tư nướcngoài, vì có khung pháp lý đủ mạnh để bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu của họ. Việt Nam đã gianhập nền kinh tế thế giới, do vậy các nhà lập pháp cấn phải xây dựng hệ thống pháp luật và cácbiện pháp để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu nhãn hiệu nói riêng. Đây lànhiệm vụ phát triển kinh tế nhưng cũng đồng thời thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam đãgia nhập. Luận án tập trung nghiên cứu hệ thống pháp luật Việt Nam trong bảo hộ quyền sở hữu nhãn hiệu, từ đó chỉ ra những điểm chưa phù hợp với các công ước quốc tế, như các thủ tục xác lập quyền sở hữu nhãn hiệu còn nhiều mâu thuẫn, cơ quan cấp giấy chứng nhận sở hữu nhãn hiệu là cơ quan hành chính nhưng cũng đồng thời là cơ quan giải quyết các khiếu nại và tranh chấp phát sinh về nhãn hiệu ; chưa có khái nhiệm chuẩn về hành vi nhái nhãn hiệu, và việc xử lý hành vi xâm phạm nhãn hiệu được áp dụng bằng cả ba hình thức chế tài như : hành chính, dân sự, và hình sự với mức chế tài còn nhẹ chưa mang đủ tính răng đe và ngăn chặn những hành vi tương tự xuất hiện trong tương lai, mức bồi thường chưa tương xứng với thiệt hại mà chủ sở hữu nhãn hiệu phải gánh chịu. Luận án giới thiệu kinh nghiệm của một số quốc gia Châu Âu trong việc bảo hộ nhãn hiệu hang hoá, từ đó làm cơ sở cho việc đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, trước nhất phù hợp với các công ước quốc tế, từ đó có thể khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam mạnh dạn tham gia thị trường thế giới và có thể thu hút được những nhà đầu tư nước ngoài.
3

Conduites de socialisation organisationnelle des jeunes diplômées vietnamiennes : rôle de l'autoreprésentation des rôles des femmes, des attentes de rôles professionnels perçues de la part des employeurs et du sens du travail / Behaviors of organizational socialization of Vietnamese young graduated women : role of auto-representation of women, of perceived professional expectations from employers, and of meaning of work

Bùi, Thị Hồng Thái 21 December 2012 (has links)
Cette recherche s’inscrit dans le champ de la psychologie sociale du travail et des organisations. Elle s’intéresse aux conduites de socialisation organisationnelle des jeunes diplômées vietnamiennes. Adoptant une approche systémique et constructiviste, nous considérons que chaque individu au travail est un « sujet actif parce que pluriel et prospectif » dans son processus de socialisation et de personnalisation. Dans une visée exploratoire, nous cherchons à montrer que les conduites de socialisation des jeunes diplômées vietnamiennes ne sont pas uniquement déterminées par leurs caractéristiques socio-biographiques et leurs contextes organisationnels, mais qu’elles sont aussi orientées par leur activité psychologique de signification du travail. Après une enquête exploratoire par entretien, une enquête extensive par questionnaire nous a permis d’interroger 435 jeunes femmes diplômées à partir du niveau Maîtrise, dans une pluralité de domaines de travail. L’analyse des résultats permet tout d’abord d’établir une typologie des jeunes diplômées vietnamiennes. Les caractéristiques socio-biographiques de chacune des 4 classes dégagées, sont en relations significatives avec les différentes conduites de socialisation organisationnelle étudiées. A l’analyse de ces premiers constats, le contexte socio-économique et culturel dans la transition du travail et de l’emploi au Vietnam nous semble toujours constituer un « déterminant collectif » prégnant des conduites individuelles des travailleurs. Les résultats montrent, en outre, le poids important des processus axiologiques qui sont en jeu dans l’activité de nos sujets, notamment l’influence du sens du travail sur les processus d’évaluation par les sujets, des effets de leur activité de travail. En plus d’une contribution pour décrire les conduites au travail des jeunes diplômées vietnamiennes actuelles, ces résultats permettent de formuler des recommandations tant au niveau théorique qu’au niveau pratique. Au niveau théorique, ils invitent, entre autres, à enrichir la notion de « sujet pluriel » dans une même sphère professionnelle que la littérature n’aborde pas encore. Au niveau pratique, ils amènent à des propositions en matière de formation et d’orientation professionnelle pour faciliter l’insertion professionnelle des jeunes vietnamiennes ainsi que des jeunes vietnamiens. / This research is in the field of social psychology of work and organizations. It is interested in behavior organizational socialization of graduated Vietnamese young women. Adopting a systemic and constructivist approach, we think each person at work is « an active subject because plural and prospective » in his process of socialization and personalization. In an exploring view, we try to show that the socialization behaviours of young Vietnamese graduated are not only determined by their socio-biographical characteristics and their organizational contexts but also oriented by their psychological activity of meaning of work. After an exploratory investigation by interview, an extensive survey with questionnaire allowed us to inquire 435 young women graduates, from Master of Arts level, in a multiplicity of work spheres. First, the analysis of the results, allows establishing a typology of young Vietnamese graduates. The socio-biographical characteristics of the 4 classes are in significant relationships with the various behaviours of organizational socialization. When analyzing those first results, it seems that socio-economic and cultural context in the transition of labour and employment in Vietnam, stay a « collective determinant » for individual behaviours of workers. In addition, the results show the importance of axiological processes which are involved in the activities of our subjects, including the influence of the meaning of work, on the evaluation process by the subjects of the effects of their work activity. Over the contribution to describe the working behaviours of young graduates Vietnamese, these results provide recommendations both at a theoretical and at a practical level. At the theoretical level, they invited to enrich the notion of « plural subject » in the same professional sphere as literature doesn’t approach yet. Practically, they lead to propose training and professional guidance to make easier the professional insertion of young Vietnamese women and men. / Thuộc chuyên ngành Tâm lí học lao động và các tổ chức, luận án này nghiên cứu các hành vi xã hội hóa nghề nghiệp của nữ trí thức trẻ Việt Nam. Vận dụng « tiếp cận hệ thống và xây dựng », chúng tôi cho rằng mỗi cá nhân là một « chủ thể tích cực vì sự xã hội hóa đa dạng và hướng đến tương lai » trong quá trình xã hội hóa và cá thể hóa. Trong khuôn khổ một nghiên cứu mở đường, chúng tôi muốn chỉ ra rằng các hành vi xã hội hóa nghề nghiệp của nữ trí thức trẻ Việt Nam không chỉ phụ thuộc vào những đặc điểm cá nhân - xã hội và đặc điểm của môi trường lao động mà họ thuộc về, mà chúng còn được định hướng bởi đặc điểm tâm lí của nữ trí thức và ý nghĩa của công việc đối với họ. Từ phỏng vấn bán cấu trúc ban đầu, chúng tôi đã làm điều tra mở rộng bằng bảng hỏi trên 435 khách thể, là những nữ lao động có trình độ từ Đại học trở lên, trong nhiều lĩnh vực nghề nghiệp khác nhau. Các kết quả thu được cho phép thiết lập một hệ thống phân loại các nữ trí thức thành 4 nhóm. Những đặc điểm cá nhân xã hội của 4 nhóm trí thức này có mối quan hệ có ý nghĩa với hành vi xã hội hóa nghề nghiệp của họ. Từ những phân tích ban đầu, chúng tôi nhận thấy hoàn cảnh kinh tế, xã hội và văn hóa trong sự chuyển đổi lao động và việc làm ở Việt Nam luôn có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hành vi của người lao động. Bên cạnh đó, các kết quả cũng chỉ ra sự ảnh hưởng của các giá trị cá nhân đến hoạt động của chủ thể, đặc biệt là ảnh hưởng của ý nghĩa của công việc tới cách đánh giá hiệu quả hoạt động của chủ thể. Ngoài những đóng góp vào việc mô tả hành vi nghề nghiệp của nữ trí thức trẻ Việt Nam, kết quả nghiên cứu cũng cho phép chúng tôi đưa ra những kiến nghị cả về mặt lý thuyết lẫn thực tiễn. Về lí thuyết, các kết quả này mở ra việc bổ sung vào khái niệm « chủ thể đa dạng » không chỉ trong mối tương quan với các mặt khác nhau của đời sống là cuộc sống gia đình, cuộc sống nghề nghiệp, cuộc sống cá nhân và cuộc sống xã hội mà người lao động trẻ Việt Nam còn thể hiện là một « chủ thể đa dạng » ngay trong cuộc sống nghề nghiệp khi họ một lúc làm nhiều công việc. Điều này chưa được lý thuyết về xã hội hóa nghề nghiệp đề cập đến. Về mặt thực tiễn, luận án hướng đến những kiến nghị liên quan đến đào tạo và hướng nghiệp để làm thuận lợi quá trình gia nhập vào đời sống nghề nghiệp của giới trẻ Việt Nam.

Page generated in 0.041 seconds