Spelling suggestions: "subject:"ozawa""
1 |
MA y OKU. Distancia y profundidad. Ogawa Jihei y el jardín japonés del siglo XIXPastor Ivars, Juan 31 March 2015 (has links)
Pastor Ivars, J. (2015). MA y OKU. Distancia y profundidad. Ogawa Jihei y el jardín japonés del siglo XIX [Tesis doctoral]. Universitat Politècnica de València. https://doi.org/10.4995/Thesis/10251/48539
|
2 |
<b>Depictions of Pregnancy, Children, Fertility, and Family Structure by Takahashi Takako, Ogawa Yōko, and Murata Sayaka in Modern Japanese Literature</b>Bayan Konysbekkyzy (18387354) 17 April 2024 (has links)
<p dir="ltr">In this thesis, I examine three popular modern Japanese female writers—Takahashi Takako (1932-2013), Ogawa Yōko (1962- ), and Murata Sayaka (1979- ), who all debuted after the peak of Japan’s bubble economy in the late 1980s. Focusing on the works of these three authors, I investigate how they deal with the theme of pregnancy, children, fertility, and family structure, and how they are original in the world of Japanese literature. Since they are all women, in terms of feminist context, I also look into how differently they respond to gender issues from the prior generation of female authors.</p><p dir="ltr">In the Introduction, I begin with an examination of how Japanese society has changed fertility and family structure during the lifetime of women writers, which the author of this thesis aims to depict. Through an analysis of themes such as pregnancy, childbearing, fertility, and family dynamics, these authors offer nuanced reflections on the evolving roles and experiences of Japanese women within the context of a rapidly changing society. Despite their unique literary styles, they share a common interest in challenging traditional notions of womanhood and motherhood, often conflicting with societal pressures.</p><p dir="ltr">In Chapter One, the focus is on Takahashi Takako's narratives, which critique the conventional female trajectory in Japan and the societal pressures surrounding parenthood. In Chapter Two, the examination shifts to Ogawa Yōko's portrayal of female protagonists navigating societal expectations and rejecting traditional paths to womanhood and pregnancy. Finally, Chapter Three delves into Murata Sayaka's exploration of themes related to nonconformity, gender roles, marriage, and the evolving dynamics of Japanese society.</p><p dir="ltr">By analyzing these authors' works, this thesis contributes to a deeper understanding of Japanese women's experiences and societal dynamics, offering insights into contemporary issues of gender, identity, and autonomy in Japan.</p>
|
3 |
Not Just Child's Play: Neo-Romantic Humanism in Ogawa Mimei's StoriesHorikawa, Nobuko 02 June 2017 (has links)
During the early twentieth century, Japan was modernizing in all areas of science and art, including children’s literature. Ogawa Mimei (1882-1961) was a prolific writer who advanced various literary forms such as short stories, poems, essays, children’s stories, and children’s songs. As a writer, he was most active during the late Meiji (1868-1912) to Taishō (1912-1926) periods when he was a socialist. During that time, he penned many socialist short stories and children’s stories that were filtered through his humanistic, anarchistic, and romanticist ideals. In this thesis, I analyze Mimei’s socialist short stories and children’s stories written in the 1910s and 1920s. I identify both the characteristics of his writing style and the themes so we can probe Mimei’s ideological and aesthetic ideas, which have been discounted by contemporary critics. His socialist short stories challenged the dogmatic literary approach of Japanese proletarian literature during its golden age of the late 1920s and early 1930s. His socialist children’s stories also deviated from the standard of Japanese children’s literature in the 1950s and 1960s. In this thesis, I break away from the narrow views that confined Mimei to certain literary standards. This thesis is a reevaluation of Mimei’s literature on his own terms from a holistic perspective.
|
4 |
The changes in antigenic components of Vibrio cholerae strains isolated in Vietnam / Sự biến đổi thành phần kháng nguyên của các chủng Vibrio cholerae phân lập ở Việt NamHa, Thi Quyen, Dinh, Duy Khang 08 December 2015 (has links) (PDF)
Whole cells of Vibrio cholerare serotype Inaba and serotype Ogawa (strains I389 and O395) were injected into rabbits to obtain antiserum. The antiserums were used for immune reaction with antigenic components of 25 strains of V.cholerae isolated from five provinces of Vietnam and the two standard strains I389 and O395 by Western-blot technique. Analysis of immune hybrid results showed that there were 11 antigenic components with molecular weights approximately 79kDa, 62kDa, 52kDa, 45kDa, 42kDa, 38kDa, 35kDa, 31kDa, 26kDa, 23kDa and 20kDa. In which the antigens of 45kDa, 42kDa, 31kDa and 20kDa were similar to OmpT, OmpS, Omp-31kDa and TcpA that have been considered as vaccine-candidate antigens. Among 25 V.cholerae strains, there were 6 antigenic components in common including 79kDa, 62kDa, 45kDa, 35kDa, 31kDa and 20kDa. 23/25 strains contained 42kDa antigen; 5/25 strains contained 38kDa and 23kDa antigens; 11/25 had 26kDa antigen. In addition, 7/25 strains contained antigens identical to V.cholerae I389 serotype Inaba; 6/25 strains contained antigens of I389 and O395; 12/25 strains had changes of antigenic components. These changes were actually the lack of antigens, not appearing new antigens. These results are considered as basis for researches about immune response and prevention of cholera disease. / Toàn bộ tế bào của các chủng Vibrio cholerare typ huyết thanh Inaba và typ huyết thanh Ogawa (chủng I389 và O395) được sử dụng để gây miễn dịch trên thỏ để thu kháng huyết thanh. Các kháng huyết thanh được dùng để thực hiện phản ứng miễn dịch với các thành phần kháng nguyên của 25 chủng V.cholerae phân lập từ 5 tỉnh thành của Việt Nam và hai chủng chuẩn I389 và O395 bằng kỹ thuật Western-blot. Phân tích kết quả lai miễn dịch cho thấy, có tổng số 11 thành phần kháng nguyên có kích thước khoảng 79kDa, 62kDa, 52kDa, 45kDa, 42kDa, 38kDa, 35kDa, 31kDa, 26kDa, 23kDa và 20kDa. Các kháng nguyên này chủ yếu là các protein màng ngoài (Omp) và kháng nguyên lông (TcpA). Trong đó các kháng nguyên 45kDa, 42kDa, 31kDa và 20kDa trùng với các kháng nguyên OmpS, OmpT, Omp-31kDa và TcpA được xem là những kháng nguyên dự tuyển vacxin tả. Có 6 kháng nguyên chung giữa 25 chủng với kích thước 79kDa, 62kDa, 45kDa, 35kDa, 31kDa và 20kDa. 7/25 chủng có các kháng nguyên giống với kháng nguyên của chủng V. cholerae I389 typ huyết thanh Inaba; 6/25 chủng có các kháng nguyên giống với kháng nguyên của cả hai chủng V.cholerae I389 và O395; 12/25 chủng có sự biến đổi thành phần kháng nguyên. Tuy nhiên, sự biến đổi này thực chất là sự thiếu hụt chứ không phải là sự xuất hiện các thành phần kháng nguyên mới. Các kết quả nghiên cứu này có thể được xem là nền tảng ban đầu cho các nghiên cứu về miễn dịch và dự phòng bệnh tả.
|
5 |
The changes in antigenic components of Vibrio cholerae strains isolated in Vietnam: Research articleHa, Thi Quyen, Dinh, Duy Khang 08 December 2015 (has links)
Whole cells of Vibrio cholerare serotype Inaba and serotype Ogawa (strains I389 and O395) were injected into rabbits to obtain antiserum. The antiserums were used for immune reaction with antigenic components of 25 strains of V.cholerae isolated from five provinces of Vietnam and the two standard strains I389 and O395 by Western-blot technique. Analysis of immune hybrid results showed that there were 11 antigenic components with molecular weights approximately 79kDa, 62kDa, 52kDa, 45kDa, 42kDa, 38kDa, 35kDa, 31kDa, 26kDa, 23kDa and 20kDa. In which the antigens of 45kDa, 42kDa, 31kDa and 20kDa were similar to OmpT, OmpS, Omp-31kDa and TcpA that have been considered as vaccine-candidate antigens. Among 25 V.cholerae strains, there were 6 antigenic components in common including 79kDa, 62kDa, 45kDa, 35kDa, 31kDa and 20kDa. 23/25 strains contained 42kDa antigen; 5/25 strains contained 38kDa and 23kDa antigens; 11/25 had 26kDa antigen. In addition, 7/25 strains contained antigens identical to V.cholerae I389 serotype Inaba; 6/25 strains contained antigens of I389 and O395; 12/25 strains had changes of antigenic components. These changes were actually the lack of antigens, not appearing new antigens. These results are considered as basis for researches about immune response and prevention of cholera disease. / Toàn bộ tế bào của các chủng Vibrio cholerare typ huyết thanh Inaba và typ huyết thanh Ogawa (chủng I389 và O395) được sử dụng để gây miễn dịch trên thỏ để thu kháng huyết thanh. Các kháng huyết thanh được dùng để thực hiện phản ứng miễn dịch với các thành phần kháng nguyên của 25 chủng V.cholerae phân lập từ 5 tỉnh thành của Việt Nam và hai chủng chuẩn I389 và O395 bằng kỹ thuật Western-blot. Phân tích kết quả lai miễn dịch cho thấy, có tổng số 11 thành phần kháng nguyên có kích thước khoảng 79kDa, 62kDa, 52kDa, 45kDa, 42kDa, 38kDa, 35kDa, 31kDa, 26kDa, 23kDa và 20kDa. Các kháng nguyên này chủ yếu là các protein màng ngoài (Omp) và kháng nguyên lông (TcpA). Trong đó các kháng nguyên 45kDa, 42kDa, 31kDa và 20kDa trùng với các kháng nguyên OmpS, OmpT, Omp-31kDa và TcpA được xem là những kháng nguyên dự tuyển vacxin tả. Có 6 kháng nguyên chung giữa 25 chủng với kích thước 79kDa, 62kDa, 45kDa, 35kDa, 31kDa và 20kDa. 7/25 chủng có các kháng nguyên giống với kháng nguyên của chủng V. cholerae I389 typ huyết thanh Inaba; 6/25 chủng có các kháng nguyên giống với kháng nguyên của cả hai chủng V.cholerae I389 và O395; 12/25 chủng có sự biến đổi thành phần kháng nguyên. Tuy nhiên, sự biến đổi này thực chất là sự thiếu hụt chứ không phải là sự xuất hiện các thành phần kháng nguyên mới. Các kết quả nghiên cứu này có thể được xem là nền tảng ban đầu cho các nghiên cứu về miễn dịch và dự phòng bệnh tả.
|
Page generated in 0.0413 seconds