• Refine Query
  • Source
  • Publication year
  • to
  • Language
  • 188
  • 83
  • 4
  • 4
  • Tagged with
  • 196
  • 196
  • 140
  • 140
  • 140
  • 53
  • 49
  • 15
  • 15
  • 13
  • 13
  • 12
  • 12
  • 11
  • 11
  • About
  • The Global ETD Search service is a free service for researchers to find electronic theses and dissertations. This service is provided by the Networked Digital Library of Theses and Dissertations.
    Our metadata is collected from universities around the world. If you manage a university/consortium/country archive and want to be added, details can be found on the NDLTD website.
21

Gender role in mangrove resource management: case study in Trieu Phong district of Quang Tri province, Vietnam

Nguyen, Thi Hong Mai, Dang, Thai Hoang 16 January 2019 (has links)
A study on gender roles in mangroves management was conducted in Trieu Phuoc and Trieu Do communes of Trieu Phong district, Quang Tri province to gain a better understanding of gender roles in mangrove management. Research showed that local people are mainly dependent on fishing and aquaculture around the mangroves. Women have a good understanding about the role of mangroves and they are associated with mangroves not less than men, but so far their role has been overlooked. Mangrove management process seems to exclude women. This reduces the common management capacity of community. In addition, communities do not have a common regulation on the management and protection of mangrove forest resources and environment. A number of solutions are recommended such as strengthening the participation of civil society and women in mangrove forest management, developing a mangrove protection strategy and community-based regulations including gender. / Nghiên cứu về vai trò giới trong quản lý rừng ngập mặn (RNM) được thực hiện trên địa bàn 2 xã Triệu Phước và Triệu Độ của huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị nhằm có được sự hiểu biết hơn về vai trò giới trong quản lý RNM. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng người dân ở đây chủ yếu sống dựa vào việc đánh bắt và nuôi trồng thủy sản tại khu vực RNM. Phụ nữ có hiểu biết khá tốt về vai trò crò RNM và họ gắn liền với RNM không kém nam giới, nhưng cho đến nay vai trò của họ gần như không được nhìn nhận. Công tác quản lý RNM còn hạn chế nữ giới tham gia. Điều này làm giảm năng lực quản lý chung của cộng đồng. Ngoài ra các cộng đồng vẫn chưa có quy ước chung về quản lý, bảo vệ tài nguyên và môi trường RNM. Từ đó nghiên cứu đề xuất một số giải pháp như tăng cường sự tham gia của các tổ chức dân sự và phụ nữ trong quản lý RNM, xây dựng chiến lược bảo tổn RNM và các quy ước quản lý RNM dựa vào cộng đồng bao gồm giới.
22

Isolation and selection of probiotic bacteria capable of forming biofilm for fermenting soybean meal

Hoang, Phuong Ha, Cung, Thi Ngoc Mai, Nguyen, Thi Minh, Do, Thi Lien, Do, Lan Phuong, Le, Thi Nhi Cong 16 January 2019 (has links)
Soybean meal (SBM) is residua product after oil extraction, the SBM with 48% protein is used for poultry, cattle. The SBM contains significant amount of anti-nutritional factors. Degradation of most antigenic proteins and protease inhibitors in SBM fermented by fungal, yeast and bacterial strains. Soybean fermented products are used as feed for livestock or aquaculture. Recently, biofilm forming microorganisms were broadly applied for fermentation process using substrates such as rice bran, corn, soybean meal ... to produce probiotics. In this study, we isolated and selected beneficial microbial strains that are capable of well biofilm forming, produce digestive enzymes and resist pathogenic microorganisms to ferment of soybean meal. The result showed that, four microorganism strains including NA5.3; TB2.1; TB4.3 TB4.4 had ability of forming higher biofilm, producing digestive enzymes such as amylase, protease and cellulose. Among them, NA5.3 and TB 4.4 strains had anti-pathogenic bacteria capacity such as Vibrio parahaemolyticus; Enterococcus faecalis; Bacillus cereus and Escherichia coli. Four selected strains were checked effection of pH, temperature, NaCl and bile salt concentration to their biofilm formation. The result indicated suitable conditions for forming biofilm at pH 6-8 range; temperature range 30-37°C; NaCl concentration of 0-3%, bile salt concentration of 0.5-2%. The selected strains grew well during solid fermentation process, achieved 1011 CFU/gram. / Khô đậu nành là sản phẩm còn lại từ quá trình ép dầu chứa tới 48% protein thô và thường được sử dụng làm thức ăn cho gia cầm, gia súc. Nhưng trong khô đậu nành còn chứa một lượng đáng kể một số chất ức chế dinh dưỡng, các chất ức chế này lại được phân hủy bởi quá trình lên men nhờ một số loài vi khuẩn, nấm mốc hay nấm men. Sản phẩm lên men khô đậu tương được sử dụng làm thức ăn cho gia cầm, gia súc hay nuôi trồng thủy sản. Trong những năm gần đây, các vi sinh vật tạo màng sinh học đã được ứng dụng để lên men các cơ chất như cám gạo, ngô, khô đậu nành… tạo sản phẩm probiotics. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã phân lập và tuyển chọn một số vi sinh vật có lợi tạo màng sinh học cao, sinh các enzyme tiêu hóa và kháng lại một số vi khuẩn gây bệnh cho mục đích lên men khô đậu nành. Kết quả đã lựa chọn được 4 chủng vi khuẩn NA5.3; TB2.1; TB4.3 TB4.4 có khả năng tạo màng sinh học cao, sinh các enzyme như amylase, protease và cellulose.Trong đó,hai chủng NA5.3 và TB4.4 có khả năng kháng lại một số vi khuẩn gây bệnh như Vibrio parahaemolyticus; Enterococcus faecalis; Bacillus cereus và Escherichia coli. Bốn chủng vi khuẩn lựa chọn được nghiên cứu ảnh hưởng của các điều kiện lên khả năng tạo màng sinh học của chúng, chúng thích hợp ở pH 6-8; nhiệt độ 30-37°C; NaCl 0-3%, muối mật 0,5-2%. Sử dụng các chủng vi khuẩn này cho quá trình lên men rắn khô đậu tương, mật độ vi khuẩn sau khi lên men đạt 1011 CFU/gram.
23

Appropriating conditions for acquisition highcontent α – amylase of germinated brown rice variety Oryza stiva Anhdao

Luu, Anh Van, Nguyen, Thi Yen, Ho, Thi Thuy An, Nguyen, Thi Thanh Hang, Nguyen, Truong Giang 05 February 2019 (has links)
Brown rice is a food ingredient which has high nutritious values. During germination, some nutritious and functional components are increased such as lysine, vitamin E, B1, B6, magnesium, calcium, iron… and especially γ – amino butyric acid. Enzyme activity will also change during the germination of the grains. The α – amylase activity of ungerminated grains is very low, only 34.91 UI/g. This is because the enzyme is hibernating and not activated. During germination, enzyme activity will increase. Submerge the Anhdao brown glutinous rice for 6 hours at 30oC in solutions with different pH values (2.0, 3.0, 4.0, 5.0, 6.0). The results show that at pH 3.0 the activity of α – amylase enzyme reaches the highest value of 82.93 UI/g. After the submersion, incubate the germinated brown rice in unentirely anaerobic condition at different temperature of 25, 30, 35, 37oC. The result showed that at 35oC after 24 hours of incubation, the α – amylase activity reaches the highest value of 89.82 UI/g. Examine the dynamic of changes of α – amylase activity against time at 35oC, we can see that in the first 28 hours the α – amylase activity increased significantly. Highest α – amylase activity reaches 97.10 UI/g after 28 hours of incubation. In reality, people usually use enzyme from germinated grains for many food manufacturing industries. α – amylase activity increases during incubation, which can bring promising prospects for processing sugar syrup and prebiotics food from germinated rice. / Gạo lứt là một nguyên liệu thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao. Trong quá trình nảy mầm các thành phần dinh dưỡng và chức năng của hạt gạo lứt được tăng lên ví dụ như lysine, các vitamin E, B1, B6, magie, canxi, sắt… và đặc biệt là γ – amino butyric acid. Hoạt tính của hệ enzyme sẽ thay đổi trong suốt quá trình nảy mầm của hạt gạo. Hoạt tính enzyme α – amylase của hạt gạo chưa nảy mầm là rất thấp, chỉ đạt 34,91UI/g, do enzyme của hạt đang ở trạng thái ngủ chưa được kích hoạt. Trong quá trình nảy mầm thì hoạt tính của α – amylase tăng lên. Tiến hành ngâm gạo lứt giống nếp Anh Đào trong 6 tiếng, ở 30oC trong nước ngâm có pH khác nhau (pH 2.0, 3.0, 4.0, 5.0, 6.0). Kết quả cho thấy, ở pH 3.0 hoạt độ enzyme α – amylase cao nhất đạt 82,93 UI/g. Sau quá trình ngâm, tiến hành ủ nẩy mầm gạo lứt yếm khí không hoàn toàn ở những nhiệt độ khác nhau 25, 30, 35, 37oC, kết quả ở 35oC sau 24 giờ ủ hoạt độ enzyme α – amylase đạt cao nhất là 89,82 UI/g. Khảo sát động học sự thay đổi của hoạt độ enzyme α – amylase theo thời gian ở nhiệt độ ủ 35oC, kết quả cho thấy,trong 28 giờ đầu hoạt độ của α – amylase tăng mạnh. Hoạt độ α – amylase cao nhất đạt 97,10 UI/g sau 28 giờ ủ. Trong thực tế người ta đã sử dụng enzyme từ hạt nảy mầm cho rất nhiều ngành sản xuất thực phẩm. Hoạt độ của α-amylase sau quá trình ủ mầm tăng lên, có thể đem lại triển vọng sử dụng để chế biến dịch đường và các sản phẩm có tính prebiotic từ gạo lứt nảy mầm.
24

Phosphorus treatment in wastewater by microorganisms isolated from cassava starch production waste

Luong, Huu Thanh, Vu, Thuy Nga, Nguyen, Ngoc Quynh, Nguyen, Kieu Bang Tam, Dao, Thi Hong Van, Nguyen, Thi Hang Nga 05 February 2019 (has links)
In waste water, phosphorous (P) can exist in inorganic or organic forms. Depending on the concentration, P can cause eutrophication and severe environmental pollution. Microorganisms have the ability to use and accumulate P, so microorganisms are studied to treat P in waste water in general and wastewater from cassava starch processing plants in particular. Research results show that in the 20 samples of waste water and sludge of the plant has selected three strains of bacteria that can accumulate P in the form of granules in the cell. Among them, SHV22 has the highest P accumulation capacity, reaching 3.05x10-11 mg/cell, P removal efficiency in wastewater from cassava starch processing factory is 82.1%. The strain was identified as Bacillus amyloliquefaciens. / Trong nước thải P có thể tồn tại dưới dạng vô cơ hoặc hữu cơ. Tùy thuộc vào nồng độ, P có thể gây phú dưỡng và ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Vi sinh vật có khả năng sử dụng và tích lũy P, do đó vi sinh vật là đối tượng được nghiên cứu để xử lý P trong nước thải nói chung và nước thải của nhà máy chế biến tinh bột sắn nói riêng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong 20 mẫu nước và bùn thải của nhà máy đã chọn lựa được 3 chủng vi khuẩn có khả năng tích lũy P dưới dạng hạt trong tế bào. Trong số đó, chủng SHV22 có khả năng tích lũy P cao nhất, đạt tới 3,05x10-11 mg/tế bào, hiệu quả loại bỏ P trong nước thải của nhà máy chế biến tinh bột sắn đạt 82,1%. Chủng đã được định danh là Bacillus amyloliquefaciens.
25

Effect of silver nanoparticles on water quality and phytoplankton communities in fresh waterbody

Tran, Thi Thu Huong, Duong, Thi Thuy, Nguyễn, Trung Kien, Le, Thi Phuong Quynh, Nguyen, Duc Dien, Pham, Thi Dau, Nguyen, Hoai Chau 07 February 2019 (has links)
This study aims to investigate the potential effects of environmental variables and the toxicity of nanosilver colloids synthesized by chemical reduction method on growth and development of phytoplankton community (the Microcystis genus dominance) in the eutrophication Tien lake water, Hanoi city, Vietnam. The variables analyzed including: physical (pH and Turbidity), chemical (content of NH4 +, PO4 3- and silver metal), biological (content of Chlorophyll-a, cell density). The characteristic of nanomaterial was confirmed by using UV-visible spectrophotometer, TEM and HR-TEM methods. The obtained silver nanoparticles (AgNPs) showed that their spherical form and uniform size varied from 10 to 15 nm. The experimental results showed that the samples treated with AgNPs inhibition on growth against M. aeruginosa at concentration 1 mg/l after 8 days. The content of silver in aquarium water decreased from 1 mg/l (D0) to 0.8 mg/l (D8). The contents of chlorophyll-a of phytoplankton community, including Microcystis genus in samples exposed with AgNPs were declined from 11.27 ± 0.56μg/L (D0) to 1.98 ± 0.37 μg/L (D8) . The environmental variables such as: pH, temperature, dissolved oxygen, turbidity, ammonium, phosphate...in the experiment were below the limit of the Vietnam Standard 08:2015/MONRE for surface water quality. / Mục đích của nghiên cứu này là khảo sát ảnh hưởng của vật liệu nano bạc tổng hợp bằng phương pháp khử hóa học đến sinh trưởng và phát triển của quần xã thực vật nổi (chủ yếu là chi Microcystis) trong nước hồ Tiền phú dưỡng, tại Hà Nội, Việt Nam. Các thông số phân tích bao gồm: thủy lý (pH và độ đục), hóa học (hàm lượng amoni, photphat và hàm lượng bạc kim loại), sinh học (hàm lượng chất diệp lục, mật độ tế bào). Đặc trưng của vật liệu được xác định bằng các phương pháp quang phổ UV-VIS, TEM và HR-TEM. Vật liệu nano bạc có dạng hình cầu, kích thước đồng nhất trong khoảng 10-15nm. Kết quả thử nghiệm sau 8 ngày cho thấy các mẫu có bổ sung vật liệu nano bạc ức chế sinh trưởng đối với vi khuẩn lam M. aeruginosa ở nồng độ 1mg/l. Hàm lượng bạc kim loại giảm từ 1 mg/l (ngày đầu tiên) xuống còn 0.8 mg/l (vào ngày cuối cùng). Sinh khối thực vật nổi trong đó có chi Microcystis trong mẫu xử lý với AgNPs đã giảm tương ứng từ 11.27 ± 0.56 μg/L (ngày đầu tiên, D0) xuống 1.98 ± 0.37 μg/L (ngày cuối cùng, D8). Các thông số môi trường của nước hồ đều nằm dưới giới hạn cho phép của QCVN 08:2015/BTNMT đối với chất lượng nước mặt.
26

Removal of arsenic from contaminated groundwater using laterite, sand and ash: a case study in Son Dong commune, Hoai Duc district, Ha Noi

Nguyen, Quoc Bien, Tran, Hai Nam, Nguyen, Thi Hoang Ha 07 February 2019 (has links)
Arsenic (As) contaminated groundwater has been a major concern due to the negative impacts to exposed people. This research was conducted to assess and compare the removal efficiency of As from groundwater by laterite, sand, and ash. The experiment was carried out in 14 days in a household scale in Son Dong commune, Hoai Duc district, Ha Noi. Groundwater was pumped directly from a well and flowed through 20 cm (diameter) x 80 cm (length) columns. The initial As concentration in groundwater was 526 μg/L decreasing to an average of 189, 192 and 154 μg/L after being filtrated using sand, ash, and laterite, respectively. Average removal efficiency of sand, ash and laterite during the experiment was 63.3, 63.9, and 70.5%, respectively. Laterite had higher As removal efficiency may be due to higher content of goethite and kaolinite in this sorbent which resulted in better adsorption of As. The concentrations of As in the outflow water were higher than the allowable limit set by the national technical regulation on drinking water quality (QCVN 01:2009/BYT). Therefore, it requires higher volume of sorbents or additional treatment technologies for removal of As from groundwater. / Ô nhiễm asen (As) trong nước ngầm hiện nay là một vấn đề cấp bách đối với xã hội bởi những rủi ro tiềm ẩn với sức khoẻ con người. Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá và so sánh khả năng hấp phụ As trong nước ngầm của đá ong, cát và tro. Thí nghiệm được tiến hành trong vòng 14 ngày đặt tại một hộ gia đình có nguồn nước ngầm bị ô nhiễm As thuộc xã Sơn Đồng, huyện Hoài Đức, Hà Nội. Nước ngầm được bơm từ giếng và chảy qua các cột đựng vật liệu có đường kính và chiều dài lần lượt là 20 cm và 80 cm. Nồng độ As ban đầu là 526 μg/L đã giảm xuống còn 189, 192 và 154 μg/L sau khi lọc bằng cát, tro và đá ong. Hiệu suất xử lý As trung bình của cát, tro và đá ong lần lượt là 63,3, 63,9 và 70,5 μg/L. Đá ong xử lý As tốt hơn có thể do hàm lượng goethit và kaolinit cao hơn trong vật liệu hấp phụ này dẫn đến khả năng hấp phụ As tốt hơn. Tuy nhiên hàm lượng As trong nước đầu ra vẫn chưa đạt quy chuẩn cho nước uống (QCVN 01:2009/BYT). Do đó, cần tăng thêm lượng vật liệu hoặc kết hợp với các phương pháp khác để xử lý As hiệu quả hơn.
27

Study on the environmental state in Tan Rai bauxite mining area Bao Lam district, Lam Dong province

Pham, Thi Thu Ha, Mai, The Duong, Duong, Ngoc Bach, Nguyen, Viet Hoai, Phi, Thi Ly 21 February 2019 (has links)
Planting trees in mining zones for post-mining rehabilitation is of great interest. Therefore, it is important and necessary to study the current state of the air, water, and soil environment in the mine exploited area. Therefore, this article studied and assessed the environmental state in Tan Rai bauxite mining area at Bao Lam district, Lam Dong province through the environmental components of air, water and soil, as a basis for selection of suitable crops for post-mining rehabilitation. The research result showed that the air quality in the bauxite mining area met the standard 3733/2002/QĐ-BYT. Almost monitoring parameters of surface water and wastewater is within the allowed threshold of Vietnam standards. However surface water had a sign of TSS and COD pollution (TSS and COD at the Danos stream after the received point of wastewater from No.6 tailing lake were 1.6 times and 1.07 times higher than those in standard). Ground water was polluted by Coliform (20-63,3 times over standard) and cation NH4 + (1.1-1.5 times over standard); Soil in exploiting region was strongly impacted, soil profile has changed, red-yellow soil dominated, soil fertility is pretty high, pHH20 and pHKC were from acid to neuter. This studied environment state is very suitable for planting pine and acacia. These results will be useful references, as a basis for orientation of post-mining rehabilitation. / Việc trồng cây xanh để phục hồi các vùng mỏ sau khai thác hiện đang rất được quan tâm. Do vậy, việc nghiên cứu hiện trạng môi trường không khí, nước và đất ở vùng khai thác mỏ là rất quan trọng và cần thiết. Bài báo nghiên cứu đánh giá hiện trạng môi trường vùng khai thác mỏ Bauxite Tân Rai, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng thông qua các thành phần môi trường không khí, nước, đất, làm cơ sở cho việc lựa chọn loại cây trồng phù hợp cho công tác phục hồi môi trường sau khai thác mỏ. Kết quả nghiên cứu cho thấy, chất lượng môi trường không khí tại vùng khai thác mỏ Bauxite đạt tiêu chuẩn 3733/2002/QĐ-BYT. Hầu hết các thông số quan trắc của nước mặt và nước thải đều nằm trong giới hạn cho phép theo tiêu chuẩn Việt Nam, tuy nhiên môi trường nước mặt cũng đang có dấu hiệu ô nhiễm TSS và COD (TSS và COD tại suối Danos phía dưới điểm tiếp nhận nước thải hồ quặng đuôi số 6 tương ứng gấp 1,6 lần và 1,07 lần so với tiêu chuẩn). Nước ngầm đang bị ô nhiễm Coliform (vượt quy chuẩn cho phép từ 20-63,3 lần) và NH4 + (vượt quy chuẩn cho phép từ 1,1-1,5 lần); Đất tại khu vực khai thác bị tác động mạnh mẽ, phẫu diện đất bị thay đổi, đất đỏ vàng chiếm ưu thế, đất có độ phì khá, pHH2O và pHKCl từ chua đến trung tính. Kết quả hiện trạng môi trường như vậy là phù hợp với trồng thông và keo. Những kết quả này là tài liệu tham khảo hữu ích, làm cơ sở cho việc định hướng phục hồi đất sau khai thác mỏ.
28

Bioaccumulation of organochlorine pesticides (OCPs) in molluscs and fish at the Sai Gon - Dong Nai estuary

Nguyen, Xuan Tong, Tran, Thi Thu Huong, Duong, Thi Thuy, Mai, Huong, Duong, Trong Khang, Huynh, Cong Luc, Pham, Thi Loan, Le, Thi Phuong Quynh 21 February 2019 (has links)
The aim of this study is to assess the biological accumulation of pesticide residues in aquatic organisms in Sai Gon - Dong Nai (SG-DN) estuary. Fish and mollusks were collected directly at the Soai Rap and Long Tau estuary of the SG-DN river system, washed and separated for taking the tissue. The organochlorine compounds from the tissue were then extracted and analyzed by gas chromatography system. The results showed that, the concentration of OCPs in Tegillarca granosa, Meretrix lyrata, Margaritifera auricularia and Bostrychus sinensis varied from 6.4 to 59.9 μg/kg, 7.2 to 322 μg/kg, 4.5 to 62.1 μg/kg and 2.9 to 114.3 μg/kg fresh weight, respectively. In general, molluscs species that accumulate more heptachlor, aldrin, endrin or dieldrin tend to accumulate less DDT (dichlorodiphenyltrichloroethane). Endosulfan was the most commonly found in three bivalve mollusks while DDTs (1.5–75.2 μg/kg, averaging 8.7 μg/kg weight) was the most popular OCPs in the fish (Bostrychus sinensis) samples. In DDT group, the p,p’-DDT metabolite accounted for the largest percentage, reaching 50% of total DDTs. In HCH (Hexachlorocyclohexane) group, β-HCH isomer was predominant in almost samples. / Mgr đích ccc nghiên cch này là đánh giá tích lũy sinh hhn ccn thuu trr sâu trong các sinh vvn ssnh dưưh nưưh ttư khu vvu ccu sông Sài Gòn - ĐĐn Nai (SG-DN). Cá và nhuyyu thh đưưy llư trry tiiy iicửa sông Soài RRà và Lòng Tàu thuu hh thhu sông SG-DN, đư-D rư- ss-D và tách llc phhh mô thht. Các hhc chh clo hho cơ sau đó đưưđ tách chii và phân tích bbch hh thhh ssh ký khí. Kết quả nghiên cứu cho thấy, dư lượng OCPs tích tụ trong sò điệp (Tegillarca granosa), ngao (Meretrix lyrata), trai nước ngọt (Margaritifera auricularia) và cá bớp (Bostrychus sinensis) dao động tương ứng từ 6,4 đến 59,9 μg/kg, 7,2 đến 322 μg/kg, 4,5 đến 62,1 μg/kg và 2,9 đến 114,3 μg/kg trọng lượng tươi. Nhìn chung, loài nhuyễn thể nào tích lũy nhiều heptachlor, aldrin, endrin hoăc dieldrin có xu hướng tích lũy ít DDT (Dichlorodiphenyltrichloroethane). Endosunfan là nhóm thuốc được tìm thấy nhiều nhất trong các loài nhuyễn thể nghiên cứu. Ngược lại, nhóm DDT lại phổ biến ở cá Bostrychus sinensis (1.5–75.2 μg/kg, trung bình 8.7 μg/kg trọng lượng). Dạng p.p’-DDT trong nhóm DDT chiếm tỷ lệ cao nhất, tới 50% DDT tổng. Trong khi đó, đồng dạng β-HCH của nhóm HCH (Hexachlorocyclohexane) chiếm đa số trong hầu hết các mẫu.
29

Biodiversity research and conservation in Cat Ba National Park with updated records from recent field surveys

Cao, Thi Thanh Nga, Nguyen, Song Tung 21 February 2019 (has links)
Among the protected area system of Vietnam, Cat Ba appears as an ideal national park for biodiversity research and conservation. It covers a large area of karst landscape including islands and different ecosystems ranging from forests, wetland, mangroves, caves and others. Since the establishment of Cat Ba National Park in 1986, biodiversity research and conservation within the park have been strongly promoted and raised. The park has been well known as home to highly diverse flora and fauna with many species endemic to the archipelago and Vietnam. A series of projects and programmes have been effectively implemented for urgent and long-term conservation of threatened species. However, results from scientific research also indicated that many sites and species are still almost unstudied while several sections of the park’s buffer zone are affected by human activities including unscientific development of ecotourism. We recently conduct a field survey and recorded 2 bat species and echolocation calls in their natural habitats. This paper provides an overview of achievements with recent records and recommendations for strengthening conservation of biodiversity and habitats in the park and surroundings. / Trong hệ thống khu vực bảo vệ của Việt Nam, Cát Bà là một vườn quốc gia có điều kiện thuận lợi đối với công tác nghiên cứu và bảo tồn đa dạng sinh học. Vườn quốc gia này bao gồm diện tích lớn cảnh quan núi đá vôi với các đảo và hệ sinh thái đặc trưng như rừng trên núi, đất ngập nước, rừng ngập mặn, hang động và nhiều hệ sinh thái khác. Từ khi thành lập Vườn Quốc gia Cát Bà năm 1986, công tác nghiên cứu và bảo tồn đa dạng sinh học được quan tâm và thực hiện ngày càng nhiều. Vườn quốc gia cũng chứa đựng khu hệ động vật và thực vật đa dạng với nhiều loài đặc hữu cho quần đảo và Việt Nam. Nhiều dự án và chương trình đã được thực hiện nhằm bảo tồn cấp bách và lâu dài những loài bị đe dọa. Tuy nhiên, những kết quả nghiên cứu khoa học cũng cho thấy nhiều khu vực trong phạm vi vườn quốc gia gần như chưa được nghiên cứu trong khi một số tiểu khu thuộc vùng đệm đang bị ảnh hưởng bởi hoạt động của con người như sự phát triển du lịch. Chúng tôi đã ghi nhận được 2 loài dơi cùng với tiếng kêu siêu âm trong môi trường sống tự nhiên của chúng qua thời gian điều tra thực địa vừa qua. Bài báo này cung cấp dẫn liệu tổng quan và cập nhật về những kết quả đã đạt được với những thông tin cập nhật và đề xuất nhằm thúc đẩy công tác bảo tồn đa dạng sinh học và sinh cảnh ở vườn quốc gia và vùng phụ cận trong tương lai.
30

Determining the content of toxic elements (Pb, Cd, and As) in herbal plants collected from different sites in northern Vietnam

Vuong, Truong Xuan 29 December 2021 (has links)
Plants might contain heavy metals from the surrounding polluted environment. Medicinal herb and plants, commonly used in Vietnam, may pose a risk to public health when polluted with heavy metals such as Pb, Cd and As. This study aims to investigate the content of Pb, Cd, and As in five selected herb plants (Phyllanthus urinaria L., Plantago asiatica L., Eleusine indica L., Wedelia chinensis (Osbeck) Merr, and Artemisia vulgaris L.). The samples were collected from natural sites in some provinces in northern Vietnam. The concentrations of Pb, Cd, and As were determined by the Inductively coupled plasma mass spectrometry (ICP-MS) method. The content of Pb, Cd and As was 0.247 ÷ 32.080 mg kg-1, 0.000 ÷ 1.099 mg kg-1, 0.000 ÷ 2.261 mg kg-1, respectively. A total of 50 out of the 58 investigated samples had concentrations of Pb, Cd, As lower than the permissible values of the World Health Organization (WHO). The remaining samples had contents of Pb or Cd or As significantly higher than the permissible limit defined by WHO. / Thực vật có thể bị ô nhiễm do hấp thụ kim loại nặng từ môi trường ô nhiễm xung quanh. Các loại cây thảo dược được sử dụng phổ biến làm thuốc chữa bệnh ở Việt Nam. Chúng có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe cộng đồng khi bị ô nhiễm kim loại nặng (Pb, Cd…vv.). Nghiên cứu này nhằm điều tra hàm lượng Pb, Cd và As trong năm loại cây thảo dược (cây Diệp Hạ Châu, cây Mã Đề, cây Cỏ Mần Trầu, cây Sài Đất và cây Ngải Cứu). Các mẫu cây này được lấy từ các địa điểm mọc tự nhiên ở một số tỉnh khác nhau thuộc khu vực miền bắc Việt Nam. Hàm lượng của Pb, Cd, và As được xác định bằng phương pháp ICP-MS. Hàm lượng Pb, Cd và As trong các mẫu phân tích lần lượt nằm trong khoảng là 0.247 ÷ 32.080 mg. Kg-1, 0.000 ÷ 1.099 mg. Kg-1, 0.000 ÷ 2.261 mg. Kg-1. 50 trên 58 mẫu phân tích có hàm lượng Pb, Cd, As thấp hơn giới hạn cho phép do tổ chức y tế thế giới (WHO) quy định. Có 8 trên 58 mẫu cây phân tích có hàm lượng Pb hoặc, Cd hoặc As cao hơn tiêu chuẩn giới hạn của WHO.

Page generated in 0.0233 seconds