• Refine Query
  • Source
  • Publication year
  • to
  • Language
  • 5
  • 1
  • 1
  • Tagged with
  • 7
  • 7
  • 3
  • 3
  • 2
  • 2
  • 2
  • 2
  • 2
  • 2
  • 2
  • 2
  • 2
  • 2
  • 2
  • About
  • The Global ETD Search service is a free service for researchers to find electronic theses and dissertations. This service is provided by the Networked Digital Library of Theses and Dissertations.
    Our metadata is collected from universities around the world. If you manage a university/consortium/country archive and want to be added, details can be found on the NDLTD website.
1

Biogas production from organic waste and biomass - fundamentals and current situation / Sản xuất khí sinh học từ sinh khối và rác thải hữu cơ-nguyên lý và hiện trạng.

Dornack, Christina 15 November 2012 (has links) (PDF)
The use of renewable waste for bioenergy production is in discussion because of the concurrence to the food or animal feed. The treatment of organic waste is necessary in order to keep clean the environment. The combination of those proposals, the waste utilization and the production of renewable energy can be combined with several techniques. In Vietnam the energy demand will increase rapidly in the next years, because a lot of people do not have access to electricity. The development of power sources is limited mainly to large central power plants using hydropower and traditional fossil fuels. So in the country there exists a considerable potential for sustainable energy sources like biomass and residues. The biogas potential is large due to the high livestock population. There are more than 30 million animals in farms, mostly pigs, cattle, and water buffalo. There is a high potential for biogas utilization. Biogas production is economic in small and in big plants, so household biogas digesters are one opportunity for production of renewable energy in small villages or cities with a high livestock population. The advantage of anaerobic treatment of organic waste is the work in closed loops. The treatment of organic waste and the utilization of digested sludge from wastewater treatment plants are samples for the circulation of materials after use. The remaining materials can be used in the natural circulation process, because the nutrients such as nitrogen, phosphorous and carbon, and also trace elements remain in the digested matter. In biogas plants a huge variety of substrates can be used. The adaption of biogas technology to the special conditions of the substrates, the increase of the prices for energy, the aim to replace fossil energies with renewable energies will be forced in the next years. / Việc sử dụng chất thải có thể tái tạo được để sản xuất năng lượng sinh học là vấn đề còn đang được thảo luận vì sự cạnh tranh với thức ăn hoặc thức ăn cho động vật. Việc xử lý các chất thải hữu cơ là cần thiết để giữ sạch môi trường. Sự kết hợp của các đề xuất đó, tận dụng các chất thải và sản xuất năng lượng tái tạo có thể có thể được kết hợp với một số kỹ thuật. Ở Việt Nam, nhu cầu năng lượng sẽ tăng lên nhanh chóng trong những năm tiếp theo, bởi vì rất nhiều người vẫn chưa có điện sử dụng. Sự phát triển của các nguồn năng lượng chỉ giới hạn chủ yếu là các nhà máy điện lớn trung tâm sử dụng thủy điện và các nhiên liệu hóa thạch truyền thống. Vì vậy, trong nước tồn tại tiềm năng đáng kể cho các nguồn năng lượng bền vững như sinh khối và những nguồn khác. Tiềm năng khí sinh học lớn do quần thể động vật nuôi rất lớn. Có hơn 30 triệu động vật trong trang trại, chủ yếu là lợn, bò, trâu nước. Tiềm năng sử dụng khí sinh học rất cao. Sản xuất khí sinh học rất có hiệu quả kinh tế trong các nhà máy nhỏ và lớn, do đó, các thiết bị phản ứng tạo khí sinh học ở các hộ gia đình là một cơ hội để sản xuất năng lượng tái tạo trong các thành phố hay làng mạc nhỏ với số lượng lớn các gia súc được chăn nuôi. Ưu điểm của việc xử lý kỵ khí các chất thải hữu cơ là làm việc trong vòng khép kín. Việc xử lý các chất thải hữu cơ và sử dụng bùn phân hủy từ các nhà máy xử lý nước thải là các ví dụ cho việc tuần hoàn các vật chất sau khi sử dụng. Các vật chất còn lại có thể được sử dụng trong quá trình tuần hoàn tự nhiên, vì các chất dinh dưỡng như phốt pho, nitơ và carbon, và cả các nguyên tố vi lượng vẫn tồn tại trong nguyên liệu đã phân hủy. Trong các nhà máy khí sinh học, rất nhiều loại chất nền có thể được sử dụng. Sự cải tiến công nghệ sản xuất khí sinh học theo các điều kiện đặc biệt của các chất nền, sự gia tăng của giá năng lượng, mục đích thay thế nguồn năng lượng hóa thạch bằng năng lượng tái tạo sẽ là bắt buộc trong những năm tới.
2

Experimentální sušárna čistírenských kalů / Experimental solar drier of sewage sludge

Širůček, Vojtěch January 2013 (has links)
The master’s thesis is focused on the issue of solar drying of sewage sludge. The sludge management of wastewater treatment plants is described in the first part of this thesis. This theoretical part also deals with description of drying and dryers used for sludge treatment. The second part of the thesis is focused on the experimental solar drying of sewage sludge and the evaluation of the results.
3

Use of Manganese Compounds and Microbial Fuel Cells in Wastewater Treatment.

Jiang, Junli January 2011 (has links)
Manganese compounds have a high potential for treating wastewater, both for utilizing its oxidation, flocculation ability and catalyst ability in anaerobic nitrification. The promising use of manganese compounds (such as permanganate and manganese dioxide) is regarded as an effective method of treating organic compounds in wastewater from municipal and industrial wastewater. Now it is newly realized possibilities to combine manganese compounds with Microbial Fuel Cell technology. Aiming at reusing the biomass in anaerobic digested sludge for degrading organic pollutants and simultaneously recovering electric energy, Single-chamber Microbial Fuel Cell (SMFC) system was developed and investigated during the main experimental part. Considering the electricity generation rate and characteristics of cathode, MnO2 was used as the reactant on the cathode electrode; meanwhile, the substrate types in anode compartment also were investigated and then extra sodium acetate was added to investigate the power generation performance. Two parts of the research were carried out during the whole project. The chemical treatment part was mainly designed to find out the best dosage of KMnO4 in flocculation when concurrent reacted with magnesium and calcium compounds when treating reject wastewater from digester at Hammarby Sjöstadsverk. The other part was studied to see whether it is possible to improve electricity generation by degrading organic pollutants when MnO2 was used as a cathodic reactant in sediment microbial fuel cell which consisted of anaerobic digested sludge from UASB.
4

Ammonium Removal and Electricity Generation by Using Microbial Desalination Cells.

Wang, Han January 2011 (has links)
Microbial fuel cell (MFC) has become one of the energy-sustainable technologies for wastewater treatment purpose in the recent years. It combines wastewater treatment and electricity generation together so as to achieve energy balance. By inoculating microorganism in the anode chamber and filling catholyte in the cathode chamber, and also with the help of a proton exchange membrane (PEM) between them, the MFC can transfer protons and produce power. Microbial desalination cells (MDC) are based on MFC’s structure and can fulfill desalination function by the addition of a middle chamber and anion exchange membrane (AEM). This study focuses on ammonium removal and electricity generation in MDC system. Mainly two types of liquid were tested, a solution of Hjorthorn Salt and filtrated supernatant. The experiments were performed at Hammarby Sjöstad research station and laboratory of Land and Water Resources department, Stockholm. It consists of a preparation stage, a MFC stage and a MDC stage. Until the end of MFC stage, biofilm in the anode chamber had been formed and matured. After that, solutions of different initial concentrations (1.5, 2.5, 5, 15 g/L) of Hjorthorn Salt and also filtrated supernatant have been tested. Ammonium removal degree can be obtained by measuring the initial concentration and cycle end concentration, while electricity generation ability can be calculated by voltage data which was continuously recorded by a multimeter. Results showed that this MDC system is suitable for ammonium removal in both of Hjorthorn Salt solutions and supernatant. The removal degrees in Hjorthorn Salt solution at desalination chamber were 53.1%, 52.7%, 60.34%, and 27.25% corresponding to initial NH4+ concentration of 340.7, 376, 376 and 2220 mg/L. The ammonium removal degrees in the supernatant were up to 53.4% and 43.7% under 21 and 71 hours operation, respectively. In power production aspect, MDC produced maximum voltage when potassium permanganate was used in the cathode chamber (217 mV). The power density in solutions of Hjorthorn Salt was relative low (46.73 - 86.61 mW/m3), but in the supernatant it showed a good performance, up to 227.7 and 190.8 mW/m3.
5

Biogas production from organic waste and biomass - fundamentals and current situation: Review paper

Dornack, Christina 15 November 2012 (has links)
The use of renewable waste for bioenergy production is in discussion because of the concurrence to the food or animal feed. The treatment of organic waste is necessary in order to keep clean the environment. The combination of those proposals, the waste utilization and the production of renewable energy can be combined with several techniques. In Vietnam the energy demand will increase rapidly in the next years, because a lot of people do not have access to electricity. The development of power sources is limited mainly to large central power plants using hydropower and traditional fossil fuels. So in the country there exists a considerable potential for sustainable energy sources like biomass and residues. The biogas potential is large due to the high livestock population. There are more than 30 million animals in farms, mostly pigs, cattle, and water buffalo. There is a high potential for biogas utilization. Biogas production is economic in small and in big plants, so household biogas digesters are one opportunity for production of renewable energy in small villages or cities with a high livestock population. The advantage of anaerobic treatment of organic waste is the work in closed loops. The treatment of organic waste and the utilization of digested sludge from wastewater treatment plants are samples for the circulation of materials after use. The remaining materials can be used in the natural circulation process, because the nutrients such as nitrogen, phosphorous and carbon, and also trace elements remain in the digested matter. In biogas plants a huge variety of substrates can be used. The adaption of biogas technology to the special conditions of the substrates, the increase of the prices for energy, the aim to replace fossil energies with renewable energies will be forced in the next years. / Việc sử dụng chất thải có thể tái tạo được để sản xuất năng lượng sinh học là vấn đề còn đang được thảo luận vì sự cạnh tranh với thức ăn hoặc thức ăn cho động vật. Việc xử lý các chất thải hữu cơ là cần thiết để giữ sạch môi trường. Sự kết hợp của các đề xuất đó, tận dụng các chất thải và sản xuất năng lượng tái tạo có thể có thể được kết hợp với một số kỹ thuật. Ở Việt Nam, nhu cầu năng lượng sẽ tăng lên nhanh chóng trong những năm tiếp theo, bởi vì rất nhiều người vẫn chưa có điện sử dụng. Sự phát triển của các nguồn năng lượng chỉ giới hạn chủ yếu là các nhà máy điện lớn trung tâm sử dụng thủy điện và các nhiên liệu hóa thạch truyền thống. Vì vậy, trong nước tồn tại tiềm năng đáng kể cho các nguồn năng lượng bền vững như sinh khối và những nguồn khác. Tiềm năng khí sinh học lớn do quần thể động vật nuôi rất lớn. Có hơn 30 triệu động vật trong trang trại, chủ yếu là lợn, bò, trâu nước. Tiềm năng sử dụng khí sinh học rất cao. Sản xuất khí sinh học rất có hiệu quả kinh tế trong các nhà máy nhỏ và lớn, do đó, các thiết bị phản ứng tạo khí sinh học ở các hộ gia đình là một cơ hội để sản xuất năng lượng tái tạo trong các thành phố hay làng mạc nhỏ với số lượng lớn các gia súc được chăn nuôi. Ưu điểm của việc xử lý kỵ khí các chất thải hữu cơ là làm việc trong vòng khép kín. Việc xử lý các chất thải hữu cơ và sử dụng bùn phân hủy từ các nhà máy xử lý nước thải là các ví dụ cho việc tuần hoàn các vật chất sau khi sử dụng. Các vật chất còn lại có thể được sử dụng trong quá trình tuần hoàn tự nhiên, vì các chất dinh dưỡng như phốt pho, nitơ và carbon, và cả các nguyên tố vi lượng vẫn tồn tại trong nguyên liệu đã phân hủy. Trong các nhà máy khí sinh học, rất nhiều loại chất nền có thể được sử dụng. Sự cải tiến công nghệ sản xuất khí sinh học theo các điều kiện đặc biệt của các chất nền, sự gia tăng của giá năng lượng, mục đích thay thế nguồn năng lượng hóa thạch bằng năng lượng tái tạo sẽ là bắt buộc trong những năm tới.
6

UASB granulation enhancement by microbial inoculum selection and process induction

Lamprecht, Corne 03 1900 (has links)
Thesis (PhD (Food Science))--University of Stellenbosch, 2009. / In the absence of anaerobic granules, anaerobically digested sewage sludge is frequently used to seed industrial upflow anaerobic sludge blanket (UASB) reactors. Because of its flocculent nature, start-up with digested sludge instead of granular sludge proceeds much slower and presents various operational problems. Any manner in which the granulation of digested sludge can be enhanced would benefit UASB reactor start-up and application in developing countries such as South Africa. The main objective of this dissertation was to improve granulation and reduce UASB reactor start-up by using pre-treated digested sludge as seed. The sludge was pre-treated based on the batch granulation-enhancement model of Britz et al. (2002). The main aim of the model was to improve extracellular polymer (ECP) production of lactate-utilising populations by applying short-term controlled organic overloading in a mechanically agitated environment. The batch granulation-enhancement (pre-treatment) process was applied to an ECP-producing digester strain, Propionibacterium jensenii S1. Non-methanogenic aggregates were formed when batch units were incubated on a roller-table instead of a linear-shake platform. Larger, more stable aggregates were obtained in the presence of apricot effluent medium. Preliminary batch granulation-enhancement studies confirmed that using the roller-table as mixing system had a positive influence on batch granulation-enhancement. The roller-table showed the most potential for handling larger volumes in comparison to a linear-shake waterbath and linear-shake platform. The addition of 450 mg.L-1 Fe2+ at the start of the study also influenced aggregate numbers positively. These studies revealed that pre-treatment results varied depending on the seed sludge source. A denaturing gradient gel electrophoresis (DGGE) method was applied for the detection of Archaea in digested sludges and UASB granules. In addition, a methanogenic marker containing methanogens important to the granulation process was constructed to aid identification. The positive influence of DMSO and “touchdown” PCR on the elimination of artifactual double bands in DGGE fingerprints were also demonstrated. Results revealed that only one of the four digested sludges tested contained Methanosaeta concilii (critical to granular nuclei formation) while it was present in all the UASB granules regardless of substrate type. Four digested sludges were obtained from stable secondary digesters. DGGE indicated the presence of M. concilii in all sludges. The Athlone 4Sb-sludge was the only sludge which exhibited measurable methanogenic activity during substrate dependent activity testing. The ST-sludge showed the highest increase in volatile suspended solids (VSS) particles ≥0.25 mm2. Laboratory-scale UASB reactor start-up was done with both sludges and start-up proceeded better in the Athlone 4Sb-reactor. Athlone 4Sb-sludge batches were pre-treated in a rolling-batch reactor in the presence of either lactate or sucrose and used to seed lab-scale UASB reactors B (sucrose seed) and C (lactate seed). Start-up efficiencies were compared to a control (Reactor A). Overall Reactor B was more efficient that the control. At the end of the study the Reactor B sludge had a higher methanogenic activity than the control reactor. It also had the highest increase in VSS ≥1.0 mm2. Pre-treatment of digested sludge in the presence of sucrose, therefore, aided granulation and reduced UASB reactor start-up time.
7

Stimulation et maitrise électrochimique de la bioremédiation des eaux / Electrochemical stimulation and control of water bioremediatin

Jobin, Lucas 25 May 2018 (has links)
Notre étude porte sur la preuve de concept de contrôle électrochimique de la méthanogénèse, métabolisme clé de la digestion anaérobie et de la bioremédiation des eaux, en exploitant le principe des piles à combustible microbiennes. Une première partie bibliographique vise à décrire les mécanismes de la méthanogénèse dans le contexte de l'auto-épuration des eaux et de production naturelle de gaz à effet de serre (GES). Les technologies de pile à combustibles microbiennes y sont traitées. Une analyse critique des études sur le contrôle électrochimique de la méthanogénèse permet de dimensionner un montage expérimental dédié à la quantification des GES en cultures biologiques électro-stimulées. Sa conception, sa validation ainsi que les méthodes de mise en culture sont décrites dans une seconde partie. Une série de cultures préliminaires sur des boues digérées anaérobies de station d'épuration permettent d'identifier et fixer les paramètres expérimentaux. Dans une troisième partie, une étude expérimentale fait la preuve de concept de contrôle électrochimique de la méthanogénèse avec une diminution significative de 33% en CH4 (tension de +300 mV vs Ag/AgCl) par rapport à la méthanogénèse naturelle non stimulée. Toutefois, la stimulation contribue à multiplier par 10 la production de CO2. Ce constat amène la problématique supplémentaire d'impact sur l'effet de serre des cultures étudiées. Nous allons donc plus loin que l'objectif initial en nous intéressant à l'empreinte carbone générée par l'ensemble des GES. Le traitement électrochimique, outre la diminution du CH4 produit, permet de diminuer la contribution à l'effet de serre de 15% des cultures électro-stimulées / Our study focuses on the proof of concept of electrochemical control of methanogenesis, key metabolism of anaerobic digestion and water bioremediation, using the principle of microbial fuel cells. A first bibliographic section aims to describe the mechanisms of methanogenesis in the context of self-purification of water and natural production of greenhouse gases (GHG). Microbial fuel cell technologies are addressed. A critical analysis of the studies dealing with electrochemical control of methanogenesis makes it possible to size an experimental setup dedicated to quantification of GHGs in electro-stimulated biological cultures. Its design, validation and methods of cultivation are described in a second part. A series of preliminary cultures on anaerobic digested sewage sludge make it possible to identify and set the experimental parameters. In a third part, an experimental study proves the concept of electrochemical control of methanogenesis with a significant decrease of 33% in CH4 (voltage of +300 mV vs Ag/AgCl) compared to natural unstimulated methanogenesis. However, stimulation contributes to a 10-fold increase in CO2 production. This observation leads to the additional problem of impact on the greenhouse effect of the cultures studied. We go further than the initial objective by looking at the carbon footprint generated by all GHGs. The electrochemical treatment, in addition to the reduction of CH4 produced, makes it possible to reduce the contribution to the greenhouse effect of 15% of electro-stimulated cultures

Page generated in 0.0877 seconds