• Refine Query
  • Source
  • Publication year
  • to
  • Language
  • 43
  • 43
  • 1
  • Tagged with
  • 44
  • 44
  • 44
  • 44
  • 44
  • 44
  • 9
  • 5
  • 5
  • 5
  • 4
  • 4
  • 4
  • 4
  • 4
  • About
  • The Global ETD Search service is a free service for researchers to find electronic theses and dissertations. This service is provided by the Networked Digital Library of Theses and Dissertations.
    Our metadata is collected from universities around the world. If you manage a university/consortium/country archive and want to be added, details can be found on the NDLTD website.
21

Assessing the surface water resources management for agricultural activities in the Soc Trang Province, Vietnamese Mekong Delta, Vietnam

Nguyen, Thi My Linh, Phan, Ky Trung, Van, Pham Dang Tri 22 February 2019 (has links)
Climate change has been affecting to livelihoods of communities in the coastal plain of the Vietnamese Mekong Delta (VMD). Surface water management in the coastal plain was considered to be limited, especially in enforcement. Therefore, the research aimed to assess the stakeholder involvement, identify the conflict in using the surface water and mechanism to solve and avoid the conflict. The directive interview farmers and governmental staffs was implemented to collect the necessary data. The descriptive statistic was applied in order to analyze the collecting data through farmer survey. The questionnaire was built based on the governance assessment framework “Ten-building Block”. The results showed that the governmental group (including the people committee and the Provincial department) was the highest participatory in the management process both in decision-making level and interested level. The surface water users, especially the farmers participated with the average rate because of their low capacity in making the decision for a new policy or a new agricultural model. Besides, different groups of stakeholders as the non-governmental organization and governmental organization (the local Youth Union, Famer’s and Women’s Association) played an important role in raising the water user’s awareness. The remaining group, including nonagricultural company or traders, nearly were not concerned about the surface water changes. In addition, there were two main types of conflicts identified: between the farmers in the same kind (1) and different kind (2) of cultivation. As the consequence of the natural salinity and the impacts of output water from shrimp pond to the rice cultivation zone, the conflict was about the inefficient water regulation and distribution for each water user. These conflicts were mostly solved through self-negotiating and self-engaging between the farmers. In fact, there was no rule or principle to solve and prevent the potential water use conflict. Thus, this could be a great challenge for the surface water management in the agricultural zone as Soc Trang in the context of increasing the extreme climatic phenomenon. / Biến đổi khí hậu đã và đang tác động lớn đến sinh kế của các cộng đồng ven biển đồng bằng sông Cứu Long (ĐBSCL). Công tác quản lý tổng hợp tài nguyên nước mặt tại vùng ven biển được cho rằng còn tồn tại nhiều hạn chế, nhất là trong triển khai và thực thi. Vì vậy, nghiên cứu được thực hiện tại Sóc Trăng (một tỉnh ven biển ĐBSCL) nhằm đánh giá sự tham gia của các thành phần có liên quan, xác định các mâu thuẫn trong sử dụng nguồn nước mặt cũng như các giải pháp giải quyết và phòng tránh mâu thuẫn. Phương pháp phỏng vấn trực tiếp nông hộ, tham vấn chuyên gia quản lý và thống kê mô tả được áp dụng để đánh giá các mục tiêu đặt ra của đề tài. Các thông tin khảo sát được xây dựng dựa trên bộ mười tiêu chí đánh giá quản trị tài nguyên nước (van Rijswick et al., 2014). Kết quả cho thấy nhóm chính quyền địa phương (bao gồm UBND và các Sở/Ngành) có vai trò và mức độ tham gia cao nhất trong chu trình quản lý. Người sử dụng nước mặt, nhất là nông dân đóng góp sự tham gia tương đối do mức đô ra quyết định về thiết lập chính sách và lựa chọn mô hình canh tác thấp. Mặt khác, các nhóm đối tượng khác như các tổ chức phi chính phủ, Đoàn thể, Hội nông dân và Hội phụ nữ đóng góp vai trò quan trọng trong nâng cao nhận thức và kêu gọi cộng đồng sử dụng hiệu quả nguồn nước mặt. Các nhóm tổ chức kinh tế như doanh nghiệp, tiểu thương gần như không quan tâm đến nguồn nước mặt. Bên cạnh đó, các mâu thuấn về sử dụng nước mặt cũng được xác định. Các mâu thuẫn được phân chia thành 2 nhóm: cùng loại hình canh tác và giữa các loại hình canh tác khác nhau. Các mâu thuẫn chủ yếu về vấn đề điều tiết nguồn nước không hợp lý và thiếu cân bằng trong phân phối nước ngọt cho các đơn vị canh tác do xâm nhập mặn tự nhiên, xả thải nước mặn vào vùng ngọt và khai thác không đồng đều. Các mâu thuẫn này chủ yếu được giải quyết thông qua thương lượng và thỏa thuân giữa các đối tượng có liên quan chứ chưa có bất kỳ một cơ chế hay quy định nào nhằm giải quyết cũng như phòng tránh các mâu thuẫn tiềm tàng. Vì vậy, đây sẽ là một thách thức lớn cho công tác quản lý nguồn nước mặt tại vùng sản xuất nông nghiệp thâm canh như Sóc Trăng trong bối cảnh gia tăng cực đoan khí hậu.
22

Methane removal using materials from biofilters at composting plants

Nguyen, Thanh Phong, Cuhls, Carsten 22 February 2019 (has links)
Methane (CH4) source of Greenhouse Gases should be considered; CH4 is formed by composting under anaerobic conditions. Using microbial Methane oxidation is a solution with low cost and effective. In this study, 27 bio-filters and 18 laboratory-scale bioreactors were used to investigate the potential for CH4 removal in biogas. The CH4, Dinitrogen monoxide (N2O) and Carbon dioxide (CO2) concentrations at the inlet and outlet of the air purifier were measured by gas chromatography. The results showed that the CH4 concentration decreased in experiments while the CO2 and N2O content increased in all experiments. An experiment was conducted with 1 kg of biofilter material with the input of 800 ppm CH4 contained in a 5-liter flask for 49 hours containing. The results also showed that the CH4 concentration decreased by 71% after 20 hours and N2O was formed in the reactor. / Mê-tan (CH4) là nguồn khí gây nên hiệu ứng nhà kính cần được quan tâm, khí CH4 được sinh ra trong quá trình ủ vi sinh trong điều kiện kị khí. Một giải pháp với chi phí thấp là sử dụng vi sinh vật oxy hóa khí CH4 cố định trên giá thể là vật liệu sử dụng trong thiết bị lọc sinh học. Trong nghiên cứu này, 27 thiết bị lọc sinh học trên thực tế và 19 bình lọc tại phòng thí nghiệm đã được sử dụng nhằm mục đích khảo sát khả năng loại bỏ CH4 có trong khí sinh học. Nồng độ khí CH4, N2O và CO2 ở đầu vào và đầu ra bể lọc khí được đo đạc bằng phương pháp sắc ký khí. Kết quả cho thấy nồng độ khí CH4 giảm sau khi qua hệ thống lọc sinh học ở một số bình, trong khi nồng độ khí CO2 và N2O lại tăng lên ở tất cả các bình. Khi khảo sát khả năng oxi hóa CH4 ở nồng độ 800 ppm của 1kg vật liệu thiết bị lọc sinh học chứa trong bình phản ứng thể tích 5L với thời gian 49 giờ. Kết quả cho thấy nồng nồng độ CH4 giảm 71% sau 20 giờ. Tuy nhiên, N2O đã được ghi nhận có hình thành trong bình phản ứng đó.
23

Use of bio-waste as fertiliser for the protected vegetable cultivation

Böhme, Michael Henry 22 February 2019 (has links)
The number of biogas plants in Germany is increasing from 3,711 in 2007 to 8,075 in 2016. In these biogas plants, it occurred more than 50 Mt digestate. Therefore, several investigations are started to use digestate as organic fertiliser mostly for field crop cultivation. Experiment with tomatoes was carried out were digestate was used as a supplement to the growing media in an amount of 5%, 15%, and 25%, compared with a treatment of mineral fertiliser and lupine wholemeal. The tomato yield was highest in the treatment with mineral fertilisation, the yield with 25% digestate was only a little lower. More experiments are necessary for particular regarding the amount and frequency of fertilization with digestate from biogas plants. In Germany and in Vietnam the number of sheep flocks is increasing, high amounts of uncleaned sheep wool are available. Because of the high amount of nutrients - especially nitrogen -, sheep wool pellets could be used as multi-functional fertiliser in vegetable cultivations. Four types of sheep wool pellets have been tested in protected cultivation. Tomatoes were cultivated in a greenhouse using substrate culture with perlite, bark compost, sheep wool slabs, respectively, and sheep wool pellets as fertiliser. Best growth and highest yield for tomatoes were obtained using pine bark and perlite as a substrate, both fertilised with sheep wool pellets. Based on the results of the yield and the analyses of the nutrient content in plants it seems that sheep wool pellets can be used, for the cultivation of vegetables in greenhouses. / Số lượng các nhà máy biogas tại CHLB Đức tăng từ 3.711 năm 2017 lên 8.075 năm 2016. Các nhà máy biogas sản sinh ra hơn 50 triệu tấn chất thải. Vì vậy đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến sử dụng nguồn chất thải này làm phân bón hữu cơ cho canh tác nông nghiệp. Thí nghiệm với cà chua sử dụng chất thải biogas làm chất bổ sung dinh dưỡng cho giá thể trồng cây theo các tỷ lệ 5%, 15% và 25% đối chứng với công thức sử dụng phân hóa học và bột nguyên vỏ họ đậu. Năng suất cà chua thu được từ các công thức bổ sung chất thải biogas đều cao hơn đối chứng, chỉ có công thức bổ sung 25% có năng suất thấp hơn. Tuy nhiên vẫn cần có những nghiên cứu tiêp theo về lượng và tần xuất sử dụng bón phân với chất thải từ nhà máy biogas. Ở Đức và ở Việt Nam số lượng đàn cừu đang tăng lên, một lượng lớn lông cừu phế phẩm phát sinh. Với hàm lượng dinh dưỡng cao, đặc biệt là nitơ, viên nén từ lông cừu phế phẩm có thể sử dụng làm phân bón đa chức năng cho trồng trọt. Nghiên cứu đã sử dụng 4 loại viên nén lông cừu làm phân bón trong điều kiện trồng có kiểm soát. Cà chua được trồng trong nhà kính với 3 loại giá thể là perlite, vỏ cây thông đã ủ hoai, thảm lông cừu với phân bón là viên nén từ lông cừu phế phẩm. Năng suất cao nhất và đem lại sinh trưởng tốt nhất cho cây cà chua là công thức sử dụng vỏ cây thông và perlite. Dựa trên kết quả về năng suất và phân tích dinh dưỡng trong cây và sản phẩm, nghiên cứu cho thấy sự phù hợp của viên nén từ lông cừu phế phẩm làm phân bón cho canh tác rau trong nhà kính.
24

The potential of electricity generation from the major agricultural wastes in the Mekong Delta of Vietnam

Nguyen, Vo Chau Ngan, Nguyen, Thi Thuy, Nguyen, Le Phuong 22 February 2019 (has links)
Agricultural activities produce a large quantity of waste each year in the Mekong Delta. For example, appropriately 26.86 million tons of rice straw, 5.37 million tons of rice husks, 1.33 million tons of bagasse and 0.59 million tons of corn straw were produced in 2016. Despite such a huge quantity of agricultural waste, the waste has been rarely used effectively. Around 54.1 - 98.0% of rice straw is normally burnt on the field; only 20 - 50% of rice husk is used for pellet or energy purposes; a few sugar-cane factories apply bagasse feeding to steam cookers, and a small quantity of corn straw is used as livestock feeding. If this biomass source is used for electricity generation, in theory, for the period of 2006 - 2020, it is estimated that this source can potentially generate 1203 million MWh/year from rice straw, 236 million MWh/year from rice husk, 45 million MWh/year from bagasse, and 40 million MWh/year from corn straw. Electricity generation of biomass source will not only solve the problem of environmental pollution caused by agricultural waste but also meet increasing energy demands for socio-economic development in this region. / Hàng năm lượng chất thải phát sinh từ một số loại hình canh tác nông nghiệp chính ở ĐBSCL rất lớn. Chỉ tính riêng năm 2016 ghi nhận thải ra khoảng 26,86 triệu tấn rơm rạ; 5,37 triệu tấn vỏ trấu; 1,33 triệu tấn bã mía và 0,59 triệu tấn thân cây bắp. Lượng chất thải phát sinh lớn nhưng các biện pháp sử dụng những nguồn sinh khối này chưa đa dạng, rơm rạ phần lớn được người dân đốt trực tiếp ngay trên đồng ruộng chiếm 54,1 - 98,0% lượng rơm rạ thải ra; chỉ có khoảng 20 - 50% lượng vỏ trấu được sử dụng; bã mía chỉ được một số nhà máy sử dụng để đốt cho lò hơi; một lượng nhỏ thân cây bắp được người dân sử dụng cho chăn nuôi. Nếu có thể tận dụng các nguồn sinh khối này để sản xuất điện thì tiềm năng lý thuyết ước tính từ năm 2005 đến 2020 của rơm rạ là 1203 triệu MWh/năm; vỏ trấu là 236 triệu MWh/năm; bã mía là 45 triệu MWh/năm; và thân cây bắp là 40 triệu MWh/năm. Sản xuất điện từ các nguồn sinh khối này không chỉ giải quyết lượng phế phẩm nông nghiệp phát sinh, giảm thiểu ô nhiễm môi trường mà còn có thể tạo ra nguồn điện cung cấp cho nhu cầu phát triển của vùng.
25

Indoor air quality and health risk assessment for workers in packaging production factory, Can Tho city, Viet Nam

Pham, Van Toan, Nguyen, Thi Phuong, Nguyen, Thanh Giao 27 February 2019 (has links)
The production of packaging goods for cement is one of the most important industries, contributing to income of many workers. Production activities, however, cause air pollution and health risk. The study was conducted to assess air quality and health risks of workers through air quality data and interviewing employees from 2016-2017 at a packaging production factory, Can Tho city, Vietnam. The findings indicated that temperature and noise exceeded the national technical regulations (QCVN 22-26: 2016/TT-BYT) while the humidity, wind speed, light, respirable particles, toxic gases (benzene, toluene, methyl ethyl ketone (MEK)) were in accordance with the national standards for occupational health and safety (Decision 3733/2002/QĐ-BYT). However, health risk assessment showed that long-term exposure in this factory would result in severe impact on health of workers due to indoor air pollution. The non-cancer risk caused by benzene, toluene and MEK for workers in the working sections such as printing, film coating, weaving, spinning and pasting was expected to cause serious impact on workers’ health. The cancer risk (benzene) index was in the range of 1.3 x 10-5 to 7.7 x 10-4 and averaged at 3.3 x 10-4. The study clearly showed that benzene greatly contributes to serious workers’ health effects. Appropriate protection measures such as treatment of air pollutants, regular health check, wearing protective clothes should be implemented to mitigate impact of indoor air pollution at the factory. More importantly, it is necessary to reconsider the standard values of benzene, toluene, methyl ethyl ketone to ensure health of workers. / Công nghiệp sản xuất bao bì xi măng thuộc lĩnh vực ngành xây dựng là một trong những ngành công nghiệp quan trọng, đã góp phần mang lại nguồn thu nhập cho nhiều người lao động. Tuy nhiên hoạt động sản xuất cũng gây ra những vấn đề về ô nhiễm môi trường không khí và rủi ro sức khỏe. Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường không khí và đánh giá rủi ro sức khỏe của công nhân thông qua số liệu chất lượng môi trường không khí và phỏng vấn trực tiếp người lao động trong khoảng thời gian từ 2016 - 2017. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhiệt độ, tiếng ồn vượt qui chuẩn cho phép (QCVN 22-26:2016/TT-BYT) trong khi độ ẩm, tốc độ gió, ánh sáng, bụi hô hấp, hơi khí độc (Benzen, toluen, methyl ethyl ketone) đạt chuẩn cho phép theo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn lao động (QĐ 3733/2002/QĐ-BYT). Tuy nhiên, kết quả đánh giá rủi ro sức khỏe cho thấy công nhân làm việc lâu dài sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe do ô nhiễm không khí. Rủi ro không gây ung thư do benzene, toluene và MEK gây ra đối với công nhân ở từng khu vực có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe công nhân làm việc ở các khu vực sản xuất như in, tráng màng, dệt, kéo sợi và dán. Benzene gây rủi ro ung thư với xác suất từ 1 đến 7 người trong 10.000 người trong quá trình làm việc lâu dài tại nhà máy. Nghiên cứu cho thấy benzene đóng góp rất lớn vào khả năng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe công nhân. Môi trường không khí bên trong nhà máy cần được cải thiện hơn nữa đồng thời tuyên truyền nâng cao ý thức công nhân thực hiện nghiêm túc bảo hộ lao động, tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho công nhân. Quan trọng hơn là cần điều chỉnh lại các giá trị qui chuẩn để đảm bảo an toàn sức khỏe cho công nhân đang làm việc tại những nơi có sự hiện diện của khí độc như benzene, toluen, methyl ethyl ketone.
26

No changes in Northern Vietnam’s precipitation extremes during rainy season for the time period from 1975 to 2006

Goihl, Sebastian 27 February 2019 (has links)
A consequence of climate change may be higher frequencies and higher intensities of extreme climate events all over the world. This paper takes a closer look at the Northern Vietnam climate conditions. The area of interest are the geographical regions North East, North West, Red River Delta and North Central Coast. For research of extreme climate, the data from 72 meteorological stations for the time period from 1975 to 2006 were used and tested for the rainy season with the method of indices for climate change research created by Expert Team on Climate Change Detection (ETCCDI). Apparently, there is a linkage between the indices and topics of social and economic impacts, but this is not a clear fact. The climate change and extreme precipitation indices of the annual total precipitation above the 95th percentile (R95p), the annual total precipitation above the 99th percentile (R99p), the simple precipitation intensity amount (SDII), the annual total precipitation on wet days (PRCPTOT) and a modified annual total precipitation above 50 mm (R50mm) are used in this study. The question, whether there are statistically significant trends is answered using the Mann-Kendall Trend test. The results show that the indices are strongly influenced by the variations of the Vietnamese climate. Hence many stations have no significant trends. For the investigated time period, most of significance trends were decreasing. But there is a positive correlation between the total precipitation in the rainy season (PRCPTOT) and the frequencies of extreme climate events above the indices thresholds from R95p and R99p. Concluding, climate models show that higher total precipitations are likely for the area of interest. Therefore, it can be expected that, in a changing climate, more extreme climate events with higher intensities will occur. / Biến đổi khí hậu có thể dẫn đến sự gia tăng về tần số và cường độ của các hiện tượng thời tiết cực đoan trên toàn thế giới. Nghiên cứu này sẽ xem xét kỹ hơn về các điều kiện khí hậu ở miền Bắc Việt Nam. Địa điểm nghiên cứu bao gồm các khu vực địa lý Đông Bắc, Tây Bắc, Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Để nghiên cứu về khí hậu cực đoan, các dữ liệu trong khoảng thời gian từ 1975 đến 2006 đã được thu thập từ 72 trạm khí tượng. Những dữ liệu này được dùng để kiểm chứng đối với mùa mưa theo phương pháp chỉ số nghiên cứu biến đổi khí hậu của Nhóm chuyên gia về phát hiện biến đổi khí hậu (ETCCCDI). Hiển nhiên có một mối liên hệ giữa các chỉ số với các chủ đề về tác động kinh tế và xã hội, tuy nhiên thực tế này vẫn chưa rõ ràng. Các chỉ số biến đổi khí hậu và mưa cực đoan của tổng mưa hằng năm trên 95 phần trăm (R95p), tổng mưa hằng năm trên 99 phần trăm (R99p), chỉ số cường độ mưa trên ngày (SDII), tổng mưa hằng năm vào những ngày ẩm ướt – mùa mưa (PRCPTOT) và tổng mưa hằng năm biến đổi trên 50mm (R50mm) được sử dụng trong nghiên cứu này. Câu hỏi về sự tồn tại của các xu hướng quan trọng về mặt thống kê được trả lời bằng phương pháp Mann-Kendall Trend. Các kết quả chỉ ra rằng các chỉ số chịu ảnh hưởng lớn từ sự biến đổi của khí hậu Việt Nam. Do vậy, ở một số trạm khí tượng không có các xu hướng có ý nghĩa. Trong khoảng thời gian nghiên cứu, các xu hướng quan trọng đều giảm. Tuy nhiên, có một mối tương quan thuận giữa tổng lượng mưa trong mùa mưa (PRCPTOT) và cường độ của các hiện tượng thời tiết cực đoan trên các cực của chỉ số từ R95P và R99p. Kết luận, các mô hình thời tiết cho thấy tổng lượng mưa lớn hơn có khả năng sẽ xảy ra trên địa bàn nghiên cứu. Vì vậy, có thể phỏng đoán rằng khi thay đổi khí hậu, sẽ diễn ra nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan với cường độ cao.
27

Effects of nano silver on the growth of banana (Musa spp.) cultured in vitro

Do, Dang Giap, Dang, Thi Kim Thuy, Nguyen, Thi Huyen Trang, Nguyen, Thi Duoc, Tran, Trong Tuan, Duong, Duc Hieu 27 February 2019 (has links)
Nano silver has positive effects on the growth and development of in vitro plants. In this study, shoots of in vitro banana with 1 cm in length were cut off the tip which was cultured in Murashige and Skoog (MS) medium supplemented with 30 g.L-1 sucrose, 15% coconut water (v/v), 5 mg. L-1 6-Benzyladenine (BA), 8 g.L-1 agar and nano silver (1, 3, 5, 7 ppm). After twenty days cultured, shoots in the medium supplemented with 1 ppm nano silver have grown well with 8.4 times multiplication and total chlorophyll content (2.05 mg.g-1), three-fold higher than in the control experiment. All new shoot samples were cultivated in a new medium with same component and supplemented with 1 mg.L-1 active charcoal to study root formation. The results showed that the best medium for root development was the one with 3 ppm nano silver. In this treatment, the height of shoots, number of leaves, number of roots, root length, fresh weight, dry weight and total chlorophyll content were 2.90 cm, 4.40 leaves per explant, 7.10 roots per explant, 7.7 cm per explant, 1.47 g per explant, 0.136 g and 3.17 mg.g-1, respectively. In vitro healthy seedlings with equal size were grown in nurseries. Different concentrations of nano silver (5, 10, 15 ppm) were sprayed on once a week. After 30 days, the highest quality result was observed at concentration 5 ppm with shoot of 4.86 cm in length, 5.20 leaves per shoot, 4.60 roots per explant, root of 4.87 cm in length and 3.07 g per explant in fresh weight. / Nano bạc có tác động tích cực lên quá trình sinh trưởng và phát triển của một số loài thực vật nuôi cấy in vitro. Trong nghiên cứu này, chồi non in vitro có chiều cao 1 cm đã cắt bỏ đỉnh được nuôi cấy trên môi trường MS có bổ sung 30 g/L đường, 15% nước dừa (v/v), 5 mg/L BA, 8 g/L agar và nano bạc ở nồng độ 1, 3, 5, 7 ppm. Sau 20 ngày nuôi cấy, mẫu cấy phát triển tốt trên môi trường bổ sung nano bạc nồng độ 1 ppm với hệ số nhân chồi 8,4 lần, hàm lượng chlorophyll tổng số đạt 2,05 mg/g, cao gấp ba lần so với mẫu đối chứng. Mẫu cấy được chuyền sang môi trường mới có thành phần tương tự và bổ sung thêm 1 mg/L than hoạt tính để khảo sát sự tạo rễ. Kết quả cho thấy mẫu cấy trên môi trường có nồng độ nano bạc 3 ppm phát triển tốt nhất với chiều cao cây 2,90 cm/mẫu; số lá 4,40/ mẫu; số rễ 7,10/ mẫu; chiều dài rễ 7,7 cm/mẫu; khối lượng tươi 1,47 g/mẫu, khối lượng khô 0,136 g/mẫu và hàm lượng chlorophyll tổng đạt 3,17 mg/g. Những cây con in vitro phát triển tốt được trồng ngoài vườn ươm. Các dung dịch nano bạc có nồng độ 5, 10, 15 ppm được dùng để phun lên cây 1 lần/tuần. Sau 30 ngày, kết quả cao nhất ghi nhận ở dung dịch có nồng độ 5 ppm với chiều cao chồi đạt 4,86 cm, 5,20 lá/chồi, 4,60 rễ/mẫu, chiều dài rễ đạt 4,87 cm và khối lượng tươi đạt 3,07 g/mẫu.
28

Heavy metal fractionation studies in tidal sediment cores in the clam farms from Tan Thanh commune, Go Cong dong district, Tien Giang province, Vietnam

Nguyen, Mai Lan 27 February 2019 (has links)
This paper introduces the results from a study on the distribution of heavy metals in chemical fractions in tidal sediment cores at four sample stations inside the baby clam breeding plain, inside the harvested clam breeding plain, and on the frontier between the plains in the clam farms in Tan Thanh commune, Go Cong Dong district, Tien Giang province, Vietnam. The partitioning of metals among the compartments of the sediment’s solid phase was investigated indirectly by selective sequential extraction of substances that are water-soluble, exchangeable, bound to carbonates, bound to Mn oxides, bound to amorphous Fe oxides, bound to crystalline Fe oxides, associated with organics and residual. In case of investigated heavy metals (HM), the concentrations of Zn and Hg exceeded the National Technical Regulation on Sediment Quality QCVN 43:2012/BTNMT by 1.12 - 3.53 times and 26.58 - 171.96 times, respectively. The highest HMs concentration was found in the oxidable fraction (more than 60%). The data demonstrates the important role of organic matters in the oxidable condition at the surficial sediment layer. Besides the oxidable fraction, high HMs concentrations were measured also in the residual fraction. The HMs content present in the solid residue also indicates the level of contamination in the river system: the greater the percentage of HMs present in the solid residue, the lesser the pollution in the environment because this solid residue involves components that can not be remobilized. The HMs concentrations depending on the depth of the sediment indicate that clam’s digestive activity or the decomposition of tissue and shell of clams possibly affects the content of HMs. / Bài báo giới thiệu các kết quả nghiên cứu về sự phân bố kim loại nặng dưới các dạng liên kết khác nhau trong các mẫu lõi trầm tích tại các bãi nuôi nghêu giống, bãi nuôi nghêu sau khi đã thu hoạch, và ranh giới giữa các bãi nuôi nghêu tại xã Tân Thành, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang, Việt Nam. Các dạng pha liên kết bao gồm: 1.pha hòa tan; 2. pha trao đổi; 3.liên kết với các bô nát; 4. liên kết với Man gan ô xít; 5. liên kết với sắt ô xít vô định hình; 6. liên kết với sắt ô xít dạng tinh thể; 7. liên kết với thành phần hữu cơ và; 8. Phần bã rắn. Trong các kim loại nặng (KLN) được phân tích, hàm lượng Zn và Hg vượt quá tiêu chuẩn cho phép QCVN 43:2012/BTNMT lần lượt từ 1,12 – 3,53 và 24,58 – 171,96 lần. Hàm lượng KLN tồn tại nhiều nhất dưới dạng liên kết với các thành phần có khả năng ô xi hóa với tỉ lệ hơn 60% chỉ ra vai trò của thành phần hữu cơ trong điều kiện ô xi hóa tại lớp trầm tích tầng mặt. Sau các thành phần có khả năng ôxi hóa, các KLN hiện diện trong phần bã rắn nhiều hơn trong các pha khác. Sự có mặt của KLN trong phần bã rắn chỉ ra mức độ ô nhiễm của hệ thống sông: càng nhiều phần trăm KLN có mặt trong phần bã rắn, càng ít ô nhiễm trong môi trường bởi phần bã rắn này liên quan đến các thành phần không thể bị rửa tách. Sự phụ thuộc theo độ sâu của hàm lượng kim loại nặng đưa ra khả năng về sự ảnh hưởng của hoạt động tiêu hóa và quá trình phân hủy của nghêu lên hàm lượng kim loại nặng.
29

Surface water quality in canals in An Giang province, Viet Nam, from 2009 to 2016

Nguyen, Hong Thao Ly, Nguyen, Thanh Giao 27 February 2019 (has links)
The present study evaluates the surface water quality in the canals of An Giang province in the period from 2009 to 2016. The results showed that surface water of the canals was contaminated by organic matter and microorganisms which makes it not suitable for water supply and conservation of aquatic life. The water quality parameters such as dissolved oxygen (DO), biological oxygen demand (BOD), total suspended solids (TSS), orthophosphate (P-PO43-) and coliforms levels in the wet season were found to be higher than those in the dry season. The problem of organic and microorganic pollution over a long period of time without solutions leads to declines in water quality and then quantity as well. Agriculture is the main activity contributing to pollution of surface water in interior canals along with the activities of daily life, industry and services. This causes pollution of the surface water on Hau River due to its exchange of water with the connected canals. Good agricultural practices should be implemented to limit the pollution of surface water resources of the Mekong Delta. / Nghiên cứu này nhằm đánh giá diễn biến chất lượng nước mặt trong các kênh rạch nội đồng của tỉnh An Giang trong giai đoạn 2009 – 2016. Kết quả cho thấy nước mặt tại các kênh rạch nội đồng đã ô nhiễm hữu cơ và vi sinh vật. Nguồn nước không phù hợp cho mục đích cấp nước sinh hoạt và bảo tồn thực vật thủy sinh. Các chỉ tiêu như hàm lượng oxy hòa tan (DO), nhu cầu oxy sinh hóa (BOD), tổng chất rắn lơ lửng (TSS), orthophosphate (P-PO43-) và coliforms trong mùa mưa cao hơn mùa khô. Vấn đề ô nhiễm hữu cơ và vi sinh vật diễn ra trong thời gian dài và chưa có giải pháp xử lý làm cho chất lượng nước suy giảm dẫn đến suy giảm về trữ lượng. Nông nghiệp là hoạt động chính góp phần làm ô nhiễm nguồn nước mặt trong các kênh rạch nội đồng bên cạnh các hoạt động sinh hoạt, công nghiệp và dịch vụ. Điều này dẫn đến nước mặt trên sông Hậu cũng có đặt tính ô nhiễm tương tự do trao đổi nước với các kênh rạch nội đồng. Thực hành sản xuất nông nghiệp thân thiện môi trường cần sớm được triển khai để hạn chế ô nhiễm nguồn nước mặt quan trọng của khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
30

Single and binary effects of atrazine, copper and chromium on duckweed

Nguyen, Vu, Nguyen, Thi Thuy Trang, Vo, Thi My Chi, Dao, ThanhSon 13 May 2020 (has links)
Recently, the agricultural, industrial and mining activities have led to increase in contaminant emission. Trace metals or herbicides are among the pollutants to be concerned in the world. In this study we evaluated the effects of the herbicide atrazine (at the concentrations of 5, 50 and500 µg L-1) and its combination with copper (Cu, 50 µg L-1) and chromium (Cr, 50 µg L-1) on duckweed over the period of 10 days in the laboratory conditions. We found that 50 and 500 µg atrazine L-1 severely impacted on the growth or even caused the death of the plants, whereas there was no statistically significant difference in the duckweed growth rate between the 5 µg atrazine L-1 exposure and control. In the combined treatments (50 µg atrazine L-1 with Cu; with Cr or with both Cu and Cr), the plant growth rate of atrazine with either Cu or Cr was strongly reduced. However, the mixture of atrazine with Cu and Cr did not significantly decrease the development and growth rate of duckweed. Besides, atrazine and investigated heavy metals resulted in turning whiteof duckweek leaves that evidence ofthe chlorophyll degradation. Our results showed the negative influences of the herbicide atrazine and metals on development and morphology of duckweed. / Gần đây, những hoạt động nông nghiệp, công nghiệp và khai khoáng đã và đang dẫn đến sự gia tăng phát thải các chất gây ô nhiễm. Kim loại nặng hoặc thuốc diệt cỏ là những chất gây ô nhiễm đang được quan tâm trên thế giới. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá ảnh hưởng của thuốc diệt cỏ atrazine (nồng độ 5, 50 và 500 µg/L) và sự kết hợp của chất này với đồng (Cu, 50 µg/L) và crom (Cr, 50 µg/L) lên bèo tấm trong thời gian 10 ngày trongđiều kiện phòng thí nghiệm. Chúng tôi nhận thấy atrazine tại nồng độ 50 và 500 µg/L đã gây nên những ảnh hưởng nghiêm trọng lên sự phát triển hay thậm chí làm cho bèo tấm bị chết, trong khi đó, không ghi nhận được bất kì sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tốc độ tăng trưởng của bèo tấm giữa lô thí nghiệm phơi nhiễm 5 µg atrazine / L và lô đối chứng. Trong những lô phơi nhiễm kết hợp (50 µg atrazine / L với Cu, với Cr hoặc với đồng thời Cu và Cr), tốc độ tăng trưởng của bèo tấm khi phơi nhiễm với atrazine và Cu hoặc Cr bị giảm mạnh, tuy nhiên, việc phơi nhiễm đồng thời atrazine với Cu và Cr đã không làm giảm đáng kể sự phát triển và tốc độ tăng trưởng của bèo tấm. Bên cạnh đó, atrazine và kim loại nặng đã làm cho màu của lá bèo tấm chuyển sang màu trắng, điều này chứng tỏ có sự suy giảm chlorophyll. Kết quả nghiên cứu này đã cho thấy những ảnh hưởng tiêu cựccủa thuốc diệt cỏ atrazine và kim loại lên sự phát triển và hình thái của bèo tấm.

Page generated in 0.0171 seconds